Kết quảcủa những phân tích sơsài
Các báo đưa tít lớn: “Dựbáo thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai năm 2008 sẽlên tới 16% GDP Việt 
Nam sắp khủng hoảng!” 
Khi một quốc gia mua trang thiết bịcho hai nhà máy lọc dầu, hai dây truyền phân đoạn ethylene, hay 
mua năm tàu chởdầu và 25 máy bay, tổng giá trịnhập khẩu tính theo USD phải tăng mạnh mẽ. Cùng với 
giá trịnhập khẩu, thâm hụt thương mại cũng buộc tăng lên tương ứng. Mặc dù vậy, khảnăng cung ứng 
vốn cho các hợp đồng mua bán này và bản chất của dòng vốn mới thực sựlà điều quan trọng. Trên thực 
tế, nếu nhưnguồn tài trợlà vốn tín dụng xuất khẩu, hay các nguồn tài chính dài hạn khác, thì thâm hụt 
thương mại không nên và không được phép nhìn nhận một cách tiêu cực nhưthời kì khủng hoảng tài chính 
châu Á 97-98 với sựthống trịcủa dòng vốn ngắn hạn. Thêm vào đó, cũng ít thấy các phân tích nghiêm túc 
vềvai trò của nguồn vốn ODA cho các khoản đầu tưhạtầng này hay các khoản mục “đầu tưcho tăng 
trưởng dài hạn”. 
Tôi được đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu cán cân thanh toán cơbản, hiểu theo nghĩa hẹp là tổng hợp 
cán cân thanh toán vãng lai và cán cân vốn dài hạn (không bao gồm dòng chảy vốn ngắn hạn) của một 
quốc gia. Các biểu đồcho thấy rằng ngay cảkhi tài khoản vãng lai được dựbáo thâm hụt lớn, cán cân 
thanh toán cơbản vẫn ởmức dưthừa, và điều này lại ngụý áp lực tăng giá của đồng tiền. 
FDI – nguồn vốn mạnh mẽvà dài hạn 
Việt Nam xếp thứ6 vềnhận vốn FDI trên thếgiới chỉsau một năm gia nhập WTO. Tôi tựhỏi liệu có điều 
gì hấp dẫn các nhà tưbản công nghiệp với cái nhìn dài hạn tới vậy, mà các chuyên gia kinh tếvà các nhà 
bình luận kinh tếkhác lại không phát hiện ra được sau một chuyến đi ngắn ngủi. Với thực tế đó, thật dễ
hiểu tại sao các nhà bình luận lại hướng mọi nỗlực vào con sốthâm hụt. 
Dòng vốn ngắn hạn cũng sẽlà một thách thức cho đất nước nhỏnhưViệt Nam 
Với thịtrường chứng khoán đã mất đi 50% giá trịtrong những tháng qua, chúng tôi không nghĩrằng dòng 
vốn ngắn hạn sẽcòn đóng vai trò lớn trong cán cân thanh toán. 
Chính sách – không đầy đủvà định hướng lệch 
Tại một đất nước với chỉcó dưới 10% dân sốcó tài khoản ngân hàng, có vẻnhưrằng chính sách tiền tệsẽ
không phải là công cụtốt đểxoay chuyển tình hình. Vậy nhưng đây lại chính là biện pháp đưa ra cho 
chính phủvà Ngân hàng Nhà Nước, tương tựnhững nỗlực của Trung Quốc. 
Câu trảlời nằm ởchính sách tài khoá, cùng với kiểm soát chặt chẽcủa chính phủ đối với doanh 
nghiệp nhà nước. 
Với sựthừa thãi vềthanh khoản trong hệthống, phải thừa nhận rằng đã có những đầu tưlãng phí. Và 
cũng giống như ởhầu hết các quốc gia với khu vực kinh tếquốc doanh đóng vai trò chủ đạo, phải thừa 
nhận rằng các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại quốc doanh là nguồn xuất phát của tình 
trạng bơm thanh khoản thiếu kiểm soát vào nền kinh tế. Nếu một doanh nghiệp dầu khí mởrộng hoạt 
động vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, bất động sản, tiêu dùng bán lẻvà giải trí, thì không một chính 
sách tiền tệnào có thểngăn được áp lực lạm phát gây ra từnguồn thanh khoản này. 
Điều cần thiết trong nền kinh tếmới nổi này là kỉluật vềtài chính, được thực hiện dưới nhiều hình thức, 
trong đó có cảtiếp tục đổi mới DNNN, bao gốm cà những giới hạn đầu tưcủa họ. Chúng tôi thấy rằng 
chính phủViệt Nam đang từng bước thực hiện chiến lược này và chúng tôi hy vọng vào viễn cảnh tốt đẹp 
tiếp theo.
              
            Tháng Năm, 2008 
May 25th 2008 
Việt Nam 
Sự thật và Những câu chuyện 
hoang tưởng 
Viết bởi SEE WEE TAN, CFA 
 “A little knowledge is a dangerous thing. Drink deep, or taste not the Pierian spring; There 
shallow draughts intoxicate the brain; And drinking largely sobers us again. “ 
………Alexander Pope 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Câu chuyện thứ 1: “Việt nam sắp khủng hoảng” 
Kết quả của những phân tích sơ sài 
Các báo đưa tít lớn: “Dự báo thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai năm 2008 sẽ lên tới 16% GDP…Việt 
Nam sắp khủng hoảng!” 
Khi một quốc gia mua trang thiết bị cho hai nhà máy lọc dầu, hai dây truyền phân đoạn ethylene, hay 
mua năm tàu chở dầu và 25 máy bay, tổng giá trị nhập khẩu tính theo USD phải tăng mạnh mẽ. Cùng với 
giá trị nhập khẩu, thâm hụt thương mại cũng buộc tăng lên tương ứng. Mặc dù vậy, khả năng cung ứng 
vốn cho các hợp đồng mua bán này và bản chất của dòng vốn mới thực sự là điều quan trọng. Trên thực 
tế, nếu như nguồn tài trợ là vốn tín dụng xuất khẩu, hay các nguồn tài chính dài hạn khác, thì thâm hụt 
thương mại không nên và không được phép nhìn nhận một cách tiêu cực như thời kì khủng hoảng tài chính 
châu Á 97-98 với sự thống trị của dòng vốn ngắn hạn. Thêm vào đó, cũng ít thấy các phân tích nghiêm túc 
về vai trò của nguồn vốn ODA cho các khoản đầu tư hạ tầng này hay các khoản mục “đầu tư cho tăng 
trưởng dài hạn”. 
Tôi được đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu cán cân thanh toán cơ bản, hiểu theo nghĩa hẹp là tổng hợp 
cán cân thanh toán vãng lai và cán cân vốn dài hạn (không bao gồm dòng chảy vốn ngắn hạn) của một 
quốc gia. Các biểu đồ cho thấy rằng ngay cả khi tài khoản vãng lai được dự báo thâm hụt lớn, cán cân 
thanh toán cơ bản vẫn ở mức dư thừa, và điều này lại ngụ ý áp lực tăng giá của đồng tiền. 
FDI – nguồn vốn mạnh mẽ và dài hạn 
Việt Nam xếp thứ 6 về nhận vốn FDI trên thế giới chỉ sau một năm gia nhập WTO. Tôi tự hỏi liệu có điều 
gì hấp dẫn các nhà tư bản công nghiệp với cái nhìn dài hạn tới vậy, mà các chuyên gia kinh tế và các nhà 
bình luận kinh tế khác lại không phát hiện ra được sau một chuyến đi ngắn ngủi. Với thực tế đó, thật dễ 
hiểu tại sao các nhà bình luận lại hướng mọi nỗ lực vào con số thâm hụt. 
Dòng vốn ngắn hạn cũng sẽ là một thách thức cho đất nước nhỏ như Việt Nam 
Với thị trường chứng khoán đã mất đi 50% giá trị trong những tháng qua, chúng tôi không nghĩ rằng dòng 
vốn ngắn hạn sẽ còn đóng vai trò lớn trong cán cân thanh toán. 
Chính sách – không đầy đủ và định hướng lệch 
Tại một đất nước với chỉ có dưới 10% dân số có tài khoản ngân hàng, có vẻ như rằng chính sách tiền tệ sẽ 
không phải là công cụ tốt để xoay chuyển tình hình. Vậy nhưng đây lại chính là biện pháp đưa ra cho 
chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước, tương tự những nỗ lực của Trung Quốc. 
Câu trả lời nằm ở chính sách tài khoá, cùng với kiểm soát chặt chẽ của chính phủ đối với doanh 
nghiệp nhà nước. 
Với sự thừa thãi về thanh khoản trong hệ thống, phải thừa nhận rằng đã có những đầu tư lãng phí. Và 
cũng giống như ở hầu hết các quốc gia với khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, phải thừa 
nhận rằng các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại quốc doanh là nguồn xuất phát của tình 
trạng bơm thanh khoản thiếu kiểm soát vào nền kinh tế. Nếu một doanh nghiệp dầu khí mở rộng hoạt 
động vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, bất động sản, tiêu dùng bán lẻ và giải trí, thì không một chính 
sách tiền tệ nào có thể ngăn được áp lực lạm phát gây ra từ nguồn thanh khoản này. 
Điều cần thiết trong nền kinh tế mới nổi này là kỉ luật về tài chính, được thực hiện dưới nhiều hình thức, 
trong đó có cả tiếp tục đổi mới DNNN, bao gốm cà những giới hạn đầu tư của họ. Chúng tôi thấy rằng 
chính phủ Việt Nam đang từng bước thực hiện chiến lược này và chúng tôi hy vọng vào viễn cảnh tốt đẹp 
tiếp theo. 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 2 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Ngoại thương và tín dụng nội địa 
Bùng nổ mở cửa thương mại quốc tế trong 20 năm qua Tập trung vào lạm phát nhập khẩu và những thâm hụt 
lớn đã bỏ qua thực tế là năng lực xuất khẩu không 
được cải thiện cơ bản 
Với thị trường Mỹ Với thị trường thế giới 
Cán cân thanh toán vẫn ổn định mặc dù tài khoản vãng 
lai thâm hụt ở mức kỉ lục 
Dòng chảy vốn bù đắp cho chênh lệch giữa đầu tư và 
tiết kiệm 
Ex
0%
50%
100%
150%
200%
250%
Sin
ga
po
re
Ho
ng
ko
ng
Ma
lay
sia
Th
ail
an
d
Ta
iw
an
Vi
etn
am
Ko
rea
Ch
ina
Ind
on
esi
a
Ph
ilip
ine
s
Ind
ia
Pa
kis
tan
port share of GDP (%)
Estimated value-added share Headline Exports
Source: CEIC, UBS "US Exposure Chart book"
Giá rị gi tăng ước tính Kim ngạch xuất khẩu 
Xuất khẩu đóng góp 
Nguồn: CEIC, UBS “US Exposure Chart 
Ex
0.0%
5.0%
10.0%
15.0%
20.0%
25.0%
30.0%
35.0%
Ho
ngk
on
port share of GDP (%)
g
Ma
lay
sia
Vie
tna
m
Sin
gap
ore
Ta
iwa
n
Th
ail
and Ch
ina
Ph
ilip
ine
s
Ko
rea
Pa
kis
tan Ind
ia
Estimated value-added share Headline Exports
 Source: CEIC, UBS "US Exposure Chart book"
Xuấ k ẩu đóng góp vào GDP (%) 
Giá trị gia tăng ước tính Kim ngạch xuất khẩu 
Nguồn: EIC, UBS “US Exposu e Chart book” 
Nguồn: Credit Suisse 
Dữ liệu được điều chỉnh cho ảnh hưởng của tết 
Xuất khẩu (% tăng theo năm) 
Nhập khẩu (% tăng theo năm) 
% phần đóng góp của 
thương mại/GDP Sự mở cửa thương mại 
Mức độ mở cửa thương mại được đo bởi tỉ lệ kim ngạch xuất 
nhập khẩu chia cho GDP của một quốc gia trong một năm 
Nguồn: IFS, IMF 
Tài khoản vãng lai (% của GDP) 
Tài khoản vốn (% của GDP) 
Cán cân thanh toán (% của GDP) 
Nguồn: Bộ công thương, Credit Suisse 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 3 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
 Xu hướng này cùng với việc FDI gia tăng giúp cân bằng 
lại những dự báo tiêu cực về tài khoản vãng lai 
FX - gia tăng khác biệt giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá 
thị trường. 
Giống như Trung Quốc, cán cân thanh toán đang gây 
áp lực tăng giá VND, với sự dẫn dắt của dòng vốn tư 
nhân. 
Tín dụng nội địa 
Tín dụng và cung tiền tăng mạnh trong những năm gần 
đây Lãi suất- cái giá của tính thanh khoản. 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 4 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Câu chuyện thứ 2 – “Việt Nam đang mất kiểm soát lạm phát” 
Vào đầu năm 2008, khi CPI tính theo năm được công bố ở mức hai con số, tất cả mọi người, kể cả Chính 
phủ Việt Nam, gọi thời kỳ này là bắt đầu của siêu lạm phát, gợi nhớ lại tình hình của những năm 80. Phản 
ứng chính sách khi đó không đầy đủ, các bình luận kinh tế thiếu tính xây dựng, và tưởng như mọi thứ sắp 
sụp đổ. 
Trong nỗ lực vượt tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã bắt tay vào đổi mới kinh tế 
theo hướng thị trường, với kết quả là xóa bỏ hầu hết các hình thức trợ giá lương thực và sản phẩm nông 
nghiệp. 
Tương tự như vậy, khi hầu hết các nền kinh tế mới nổi đều đang trợ giá nhiên liệu, Chính phủ Việt Nam 
thật sự đã bỏ trợ giá nhiên liệu vào tháng 2 năm 2008. Việt Nam là nước xuất khẩu dầu thô và và là nhà 
xuất khẩu thuần các sản phẩm năng lượng. 
Các yếu tố cấu thành CPI 
Như vậy, khi thực phẩm và sản phẩm liên quan tới dầu chiếm tỉ trọng hơn 50% trong CPI, thì tự bản thân 
cách tính CPI đã đưa ra câu trả lời chính xác cho vấn đề lạm phát. Các biểu đồ thể hiện rõ đây là hiện 
tượng toàn cầu, và ngay cả nếu như Việt Nam tiêu thụ ít thực phẩm, và dầu thì chỉ số CPI cũng chẳng 
thay đổi đáng kể để phản ánh đúng thực tế. Ai là tác giả của chỉ số CPI này? Thật thú vị khi lưu ý thêm là 
khi giá gạo đạt 1000USD/tấn, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Tương tự trong lĩnh vực 
thủy hải sản, cà phê, trà, và một loạt các hàng hóa khác, Việt Nam cũng trong vị trí nhà sản xuất và xuất 
khẩu hàng đầu. Việc Chính phủ Philippines gần đây phải gửi thông báo khẩn đến Chính phủ Việt Nam yêu 
cầu cho phép xuất khẩu thêm gạo cho các đơn vị nhập khẩu của Philippines là một sự kiện rất đáng lưu 
tâm. Ở một đất nước với an ninh lương thực tốt như Việt Nam, đáng lẽ giá lương thực ổn định phải là điều 
đương nhiên. 
Thiếu cơ quan chuyên trách kiềm chế lạm phát – nhưng vẫn có hy vọng 
Trong các thảo luận về chính sách, sự thiếu vắng các tổ chức thu mua nông nghiệp tập trung thuộc nhà 
nước để thực hiện kiểm soát giá lương thực đã không thu hút được sự chú ý cần thiết. Tình hình này vẫn 
có thể thay đổi, và nó đòi hỏi chính phủ ngừng tập trung vào các biện pháp liên quan chính sách tiền tệ và 
tập trung xây dựng một cơ chế để ổn định giá lương thực thông qua các tổ chức thu mua tập trung, kiểm 
soát khối lượng và giá trị xuất khẩu, đi cùng với cơ chế trợ giá nội địa như nhiều nước khác. 
Tỷ giá hối đoái của VND 
Những nỗ lực của ngân hàng trung ương để làm yếu VND trong suốt năm trước, thay vì để VND tăng giá 
(xem thêm phần trước để thấy đây mới là chính sách đúng đắn), đã làm trầm trọng thêm tình trạng lạm 
phát. Tôi tự hỏi ai đang tư vấn cho Bộ tài chính và ngân hàng Nhà nước về chính sách hối đoái. 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 5 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Lạm phát 
Việt Nam đã đẩy lùi lạm phát từ giữa những năm 90 Chỉ số giá tiêu dùng gia tăng – chủ yếu là thực phẩm 
Cơ cấu danh mục CPI Tại sao CPI tăng không ngừng? – lương thực và dầu 
Lạm phát là vấn đề toàn cầu Chính sách duy trì VND yếu định hướng lệch 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 6 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Câu chuyện thứ 3 – Việt Nam sẽ không thể duy trì mức đầu tư 
cao cho tăng trưởng GDP cao. 
 “Ở Việt Nam đang xuất hiện bong bóng đầu tư giống như phần còn lại của châu Á cuối những năm 90”. 
Tôi còn nhớ nhiều nhà bình luận kinh tế đã liên tục đưa ra khuyến cáo Trung Quốc không thể duy trì bền 
vững một tỉ lệ đầu tư trên GDP cao trong một thời gian dài. Và giờ đây, họ đang nhắc lại những điều 
tương tự cho Việt Nam. 
Nhiều người đã lập luận đầu tư không thể tăng trưởng bền vững và đưa ra bằng chứng là sự suy giảm hiệu 
quả đầu tư ở Việt Nam. Chúng tôi cũng cùng quan điểm rằng việc theo dõi mỗi đồng đầu tư thêm mang lại 
bao nhiêu giá trị cho một nền kinh tế đang phát triển nhanh là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, theo cách 
nhìn của chúng tôi, nền kinh tế Việt Nam còn đang trong quá trình tích luỹ đầu tư vốn, và vì thế giá trị 
đầu tư cận biên cần cho mỗi sản phẩm đầu ra thêm chưa thể suy giảm (đo lường qua chỉ số đầu tư / sản 
phẩm cận biên – hay chỉ số ICOR ròng). 
Đúng là cả ICOR gộp và ICOR ròng của nền kinh tế đã tăng đáng kể từ mức của những năm 1990, nhưng 
cả hai chỉ số này vẫn nằm trong ngưỡng hợp lý nếu so sánh với con số của Trung Quốc hay những nền 
kinh tế thị trường mới nổi khác trong khu vực. Trong năm 2006, ICOR gộp của Việt Nam ước tính khoảng 
4.5 và ICOR ròng vào khoảng 3.2, hơi thấp hơn chỉ số của Trung Quốc (ICOR gộp: 4.9; ICOR ròng: 3.6) 
trong cùng năm đó. Các nghiên cứu cho thấy ở những nước công nghiệp mới (như Hàn Quốc, Singapore, 
Malaysia, Đài Loan), ICOR dao động ICOR giữa 4 và 10 trong giai đoạn 1980-2004. Thay đổi của ICOR 
không nhất thiết phản ánh những thay đổi mang tính cơ bản của nền kinh tế, bởi ICOR còn chứa đựng 
những thông tin về thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi tổ chức, và cả những phản ứng điều chỉnh ngắn hạn 
với các cú sốc. 
Tại sao sự tăng trưởng đầu tư nhanh chóng này sẽ tiếp diễn 
Tích lũy tư bản (2004) 
 Tích lũy tư 
bản/GDP 
Tích luỹ tư bản / 
đầu người (USD) 
US 2.9 152,357 
Japan 4.4 158,352 
China 2.5 3,751 
Vietnam 2.7 1,484 
India 2.2 1,282 
Nguồn: World bank, CEIC 
Sau hơn một thập kỷ tăng trưởng đầu tư khá nhanh, vào năm 2004 mức tích luỹ tư bản trên mỗi đầu 
người của Việt Nam tương đương với của Trung Quốc vào 1996. Trên con đường trở thành nền kinh tế 
phát triển, xu hướng tích luỹ vốn trên đầu người của Việt Nam sẽ tiếp diễn mạnh mẽ. 
Giải thích 
ICOR gộp = tổng đầu tư/thay đổi GDP (tính theo giá tương ứng) 
ICOR ròng= thay đổi tổng tích lũy tư bản /thay đổi GDP (tính theo giá tương ứng) 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 7 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Kinh tế Việt Nam 
Tăng trưởng GDP khiêm tốn, nhưng sẽ khá mạnh trong 
vài năm tới Cơ cấu kinh tế: đầu tư có vai trò dẫn dắt 
GDP – vẫn khá nhỏ trong năm 2006 Nhưng tăng trưởng nhanh 
Vì vậy,với dân số đông, thu nhập bình quân đầu người 
thấp 
Và tăng trưởng dân số nhanh 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 8 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
 GDP năm 2007 theo lĩnh vực Cơ cấu dân số có lợi cho phát triển kinh tế 
Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn 
định sau đổi mới 
Việt nam tăng trưởng nhanh so với các nước châu Á, 
nhưng thâp hơn Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Đài 
Loan 
Cơ cấu kinh tế - Nhà nước và tư nhân Tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế tư nhân 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 9 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Cơ cấu kinh tế Đầu tư khu vực quốc doanh vẫn lớn nhất, nhưng hiện 
tại đã < 50% 
Cải cách nông thôn + phi tập trung hóa đất đai sau đổi 
mới 
Sản xuất cơ bản duy trì tăng trưởng cao trong khi đô 
thị hoá vẫn tiếp diễn mạnh … 
Chính phủ đã thể chế hóa quyền sử dụng đất dài hạn cho 
các hộ đối với đất hợp tác và các nguồn lợi khác theo Luật 
Đất đai mới (1987) và Luật Sửa đổi(1993). Mặc dù đất 
thuộc sở hữu Nhà nước, nông dân được giao quyền tự 
quyết việc trồng trọt trên phần đất được phân bổ và giữ 
phần lớn (ít nhất 40%) sản lượng khoán và toàn bộ phần 
vượt khoán. Việc tư nhân hóa theo kế hoạch đã tác động 
lên 4 triệu ha đất và gần ¾ lực lượng lao động của đất 
nước. Quá trình phi tập trung hóa đất đai ở Việt Nam đã 
giải phóng đáng kể tăng trưởng năng suất trong lĩnh vực 
nông nghiệp và giải phóng lao động dôi dư vào làm việc 
trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trong các khu đô 
thị. 
Ở khu vực nông thôn, các hộ cá thể được cho quyền sử 
dụng dài hạn đất thu hồi và những nguồn lợi khác. Theo 
đó, nông dân có thể tự quyết định trồng gì trên đất được 
phân bổ và thu lợi trực tiếp từ đó. Mặc dù việc di dân ồ ạt 
làm tỷ lệ tăng dân số nông thôn thấp hơn thành thị, tăng 
trưởng sản xuất cơ bản vẫn được duy trì ở mức cao. 
Doanh thu ngành du lịch ước đoán tăng mạnh. Lượng khách du lịch đến Việt Nam qua các năm 
Sự bùng nổ của công nghiệp du lịch đã mang lại giá trị 
khi Việt Nam mở cửa với thế giới. Cảnh quan thiên nhiên 
phong phú, hệ sinh thái đa dạng, văn hóa đa sắc tộc đã 
thu hút du khách nước ngoài cũng như Việt Kiều, nhất là 
sau khi cơ sở hạ tầng du lịch được nâng cấp và sự tham 
gia của khu vực tư nhân và FDI vào lĩnh vực này gia tăng. 
Năm 2007, 2,6 triệu du khách quốc tế đã đến Việt Nam, 
tăng 26% so với 2006. Trong tương lai, học hỏi kinh 
nghiệm từ các nước về phát triển du lịch, Việt Nam có thể 
mong đợi ngành du lịch sẽ tiếp tục mang lại những cơ hội 
việc làm trong mảng dịch vụ, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, 
và thu hút nhiều hơn các dự án FDI. 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – Trang 10 of 11 
 Trang 11 of 11 
Unit 201, Petro Tower, 
1-5 Le Duan, District 1 
Ho Chi Minh City, Vietnam 
Tel: (+84-8) 9107 184 
Fax (+84-8) 9107 194 
Email: 
[email protected] 
Tài nguyên Con người 
VN có thành phần dân số trẻ nhiều hơn các nước Châu 
Á khác 
Tỷ lệ lao động phụ thụôc ước tính gia tăng chỉ sau 
2030 
Giáo dục Nâng cao giáo dục 
Trình độ học vấn của lực lượng lao động Việt Nam đã 
liên tục nâng cao kể từ cuối những năm 80. Tuy nhiên 
trong bối cảnh khu vực, tỷ lệ đến trường của Việt Nam 
vẫn xếp sau mức trung bình khu vực theo nhiều tính 
toán. Chính phủ cần cải thiện hơn nữa công tác trợ cấp 
giáo dục, đặc biệt là giáo dục trẻ em gái và trong khu 
vực thiểu số miền núi. 
Việt nam và những câu chuyện hoang tưởng – 
Dân cư thành thị Đổi mới công nghệ - Việt Nam cần gia tăng chi phí 
nghiên cứu và phát triển. 
Chúc mọi điều tốt lành, 
See Wee TAN, CFA 
Giám đốc điều hành 
Mph:+84 122 8728586/ Spore Mph: +65 97568578 
Eml:
[email protected]/ 
[email protected]