Đặt vấn đề: Mề đay là bệnh khá phổ biến. Ước tính khoảng 15‐20% dân số từng mắc bệnh ít nhất một lần
trong đời. Tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, vẫn còn rất ít thông tin về đặc điểm lâm sàng của bệnh mề
đay.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả biểu hiện lâm sàng và các yếu tố liên quan bệnh nhân mề đay cấp và mạn đến
khám tại bệnh viện Da Liễu TPHCM
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Bệnh nhân mề đay đến khám và điều trị tại bệnh viện Da
Liễu TP.HCM từ 01/09/2012 đến 31/03/2013.
7 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân mề đay đến khám tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mề đay cấp. Sự khác
biệt về thể lâm sàng trong nhóm có phù mạch có
ý nghĩa thống kê (p=0,004). Vậy nếu như một
bệnh nhân mề đay có kèm phù mạch thì khả
năng người này diễn tiến mạn cao gấp đôi khi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Da Liễu 71
không có triệu chứng này. Nhưng theo tác giả
Cansin thì sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p=0,6)(1). Dù vậy, tỉ lệ phù mạch trên
bệnh nhân mề đay mạn giữa 2 nghiên cứu là
khác tương đồng 41,1% so với của chúng tôi là
42,1%. Có thể lí giải do đặc điểm dân số được
nghiên cứu khác nhau nên rất khó so sánh. Mẫu
nghiên cứu của tác giả Cansin từ 1‐19 tuổi và mề
đay mạn thường gặp ở người lớn nhiều hơn(1).
Nên có sự khác biệt về tỉ lệ phù mạch giữa 2
nhóm cấp và mạn giữa 2 nghiên cứu.
Mối liên quan giữa thể lâm sàng và thời gian
tồn tại thương tổn
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi, thời
gian thương tổn <4 giờ ở bệnh nhân mề đay mạn
chiếm 56,1% so với 34,9% mề đay cấp, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,007. Theo
Bologia, mề đay vật lý thường có thời gian
thương tổn ngắn < 2h hay theo Fitzpatrick là < 4
giờ và chiếm 35% nguyên nhân gây mề đay
mạn. Chính sự liên quan này nên có thể giải
thích vì sao đa số bệnh nhân mề đay mạn có
thương tổn tồn tại ngắn hơn so với mề đay cấp.
Yếu tố này cũng góp phần giúp ích vào tiên
lượng bệnh. Nếu bệnh nhân đến khám có thời
gian tồn tại thương tổn <4 giờ, thì phần lớn sẽ
diễn tiến mạn tính hơn cấp tính.
Mối liên quan giữa thể lâm sàng và yếu tố vật lý
Trong nhóm bệnh nhân mề đay mạn 87,7%
có yếu tố vật lý so với 61,1% ở mề đay cấp. Sự
khác biệt về thể lâm sàng trong nhóm có yếu
tố vật lý có ý nghĩa thống kê (p=0,0003). So
sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Cansin
p=0,002 thì kết quả 2 nghiên cứu là giống
nhau(16). Tuy nhiên, theo Cansin, yếu tố vật lý
trong mề đay cấp và mạn lần lượt là 18,9% và
52,9%. Có thể thấy tỉ lệ mề đay có yếu tố vật lý
thúc đẩy trong nghiên cứu của chúng tôi là
khá cao. Cũng như đề cập phần trước, vì chưa
thể khẳng định hoàn toàn đây là mề đay vật lý
do đó có sự chênh lệch này.
KẾT LUẬN
Tuổi mắc bệnh trung bình 28,41tuổi. Tỉ lệ
mắc bệnh nữ/ nam: 1,85/1. Nữ có tuổi mắc bệnh
muộn hơn.
Đa số bệnh nhân đến khám trong 2 tuần đầu
khởi bệnh. Một số ít bệnh nhân có thời gian
bệnh kéo dài trên 1 năm.
Da vẽ nổi chiếm tỉ lệ cao nhất 41%. Đặc biệt,
một bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều
yếu tố vật lý.
Tỉ lệ nhiễm trùng chiếm 46%, trong đó
viêm đường hô hấp thường gặp nhất. 18% có
sự kết hợp 2 yếu tố nhiễm trùng trên cùng một
bệnh nhân.
31% bệnh nhân có kèm viêm mũi dị ứng,
không ghi nhận trường hợp viêm da cơ địa.
Tỉ lệ Hp dương tính ở nhóm có triệu chứng
đau dạ dày cao hơn nhóm không triệu chứng
(p=0,003).
Tỉ lệ bệnh nhân mề đay mạn cư trú tại Tp
HCM là 27%, ở các tỉnh là 43,5% (p=0,037).
Nhóm bệnh nhân <16 tuổi có tỉ lệ bệnh mề
đay cấp chiếm 90% so với nhóm >=16 tuổi chiếm
64,7% (p=0,005).
56,1% bệnh nhân mề đay mạn có thời gian
thương tổn <4 giờ so với 34,9% mề đay cấp
(p=0,007).
Bệnh nhân mề đay mạn có kèm phù mạch
chiếm tỉ lệ 42,1% so với 21,4% mề đay cấp
(p=0,004).
87,7% bệnh nhân mề đay mạn có yếu tố vật
lý thúc đẩy so với 61,1% mề đay cấp (p=0,0003).
KIẾN NGHỊ
Tỉ lệ bệnh nhân mề đay mạn sống tại các
tỉnh phía Nam nhiều hơn so với nhóm các bệnh
nhân đang cư trú tại TP HCM. Điều này đặt ra
vấn đề cần thiết trong việc giáo dục bệnh nhân
hiểu rõ về bệnh mề đay. Khi đó, bệnh nhân sẽ
tin tưởng theo dõi bệnh ở các tỉnh nơi họ sinh
sống, giúp giảm tải cho bệnh viện tuyến trên.
Tuy chưa thể khẳng định đây là mề đay vật
lý nhưng các yếu tố này chiếm tỉ lệ khá cao. Gợi
ý bác sĩ lâm sàng nên quan tâm đến việc hỏi để
loại trừ các yếu tố vật lý, góp phần giúp bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 72
nhân kiểm soát bệnh tốt hơn.
Tỉ lệ nhiễm Hp trên bệnh nhân mề đay mạn
nhìn chung cao hơn so với tình hình nhiễm Hp
trong cộng đồng dân số phía Nam. Nhất là các
trường hợp có triệu chứng đau dạ dày. Chính vì
vậy, đối với những bệnh nhân này nếu bệnh vẫn
kéo dài, đáp ứng điều trị kém có thể xem xét
việc xét nghiệm Hp và điều trị Hp.
Bác sĩ có thể dự đoán thể lâm sàng thông
qua các triệu chứng như tuổi, phù mạch, thời
gian tồn tại thương tổn, yếu tố vật lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cansin S, Bulent E (2004). The Etiology of Different Forms of
Urticaria in Childhood. Pediatric Dermatology, 21(2): 102‐
108.
2. Federman DG, Kirsner RS, Moriarty JP, Concato J (2003). The
effect of antibiotic therapy for patients infected with
Helicobacter pylori who have chronic urticaria. J Am Acad
Dermatol; 49(5): 861‐864.
3. Gaig P, Olona M, Muđoz Lejarazu D, Caballero
MT, Domínguez FJ, et al (2004). Epidemiology of urticaria in
Spain. J Invest Allergol Clin Immunol; 14(3): 214‐220.
4. Hà Mai Dung (2010). Sử dụng in house ELISA kít để điều tra
tần suất nhiễm Helicobacter pylori ở sinh viên trường Đại
Học Quốc Tế ‐ ĐH Quốc Gia TP. HCMʺ. Tạp chí Y học TP Hồ
Chí Minh, Tập 14* Số 4: 215‐219.
5. Hide M, Francis DM, Grattan GEH, Hakimi J, Kochan JP,
Greaves MW (1993). Autoantibodies against the high‐affinity
IgE receptor as a cause of histamine release in chronic
urticaria. Engl J Med 328: 1599–1604.
6. Jaakko MH (1976). Urticaria from alcoholic beverages.
Allergy, 31(2): 167‐170.
7. Kaplan AP (2008). Urticaria and Angioedema. In Thomas B
Fitzpatrick. Fitzpatrick’s Dermatology in Genaral Medicine,
vol 2, 17th ed, McGraw‐Hill Inc, New York.
8. Lee HC, et al (2011). Chronic Idiopathic Urticaria in Taiwan:
A Clinical Study of Demographics, Aggravating Factors,
Laboratory Findings, Serum Autoreactivity and Treatment
Response. Journal of the Formosan Medical Association,
110(3): 175–182.
9. Leznoff A, Sussman GL (1989). Syndrome of idiopathic
chronic urticaria and angioedema with thyroid
autoimmunity: a study of 90 patients. J Allergy Clin
Immunol, 84(1): 66‐71.
10. Mervi L, et al (1998). Etiologic aspects of chronic urticaria.
International Journal of Dermatology, 37(7): 515–519.
11. Muge H, Binnur J,(2000). The relationship between
Helicobacter pylori IgG antibody and autologous serum test
in chronic urticaria. International Journal of Dermatology,
39(6): 443–445.
12. OʹDonnell BF, Lawlor F, Simpson J, Morgan M, Greaves MW
(1997), ʺThe impact of chronic urticaria on the quality of lifeʺ.
Br J Dermatol, 136, pp.197–201.
13. Ormerod AD, et al (1983). Acute urticaria due to alcohol.
British Journal of Dermatology, 108(6): 723‐724.
14. Sabroe MM (2004). Chronic Urticaria: Aetiology,
Management and Current and Future Treatment Options.
Adis International, 64: 2515‐2536.
15. Wedi B, Wagner S, Werfel T, Manns MP, Kapp A (1998).
Prevalence of Helicobacter pylori–Associated Gastritis in
Chronic Urticaria. International Archives of Allergy and
Immunology, 116(4): 288–294.
16. Zuberbier T, Semmler C, Czarnetzki, et al (1996). Acute
urticaria – clinical aspects and therapeutical responsivenessʺ.
Acta Derm Venereol (Stockh)(76): 295–297.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 66_2616.pdf