Nhiệt độ nước là một yếu tố sinh thái quan trọng 
và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống 
và các hoạt động của cá và các thủy sinh vật trong 
nước. (Xem bài giảng về sinh lý, sinh thái, thủy sinh 
học.).
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 0
              
            Nội dung tài liệu Đặc điểm lý, hóa học của mặt nước lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM LÝ, HÓA HỌC CỦA MẶT NƯỚC 
LỚN 
1- Nhiệt độ nước 
Nhiệt độ nước là một yếu tố sinh thái quan trọng 
và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống 
và các hoạt động của cá và các thủy sinh vật trong 
nước. (Xem bài giảng về sinh lý, sinh thái, thủy sinh 
học.). 
1.1- Nhiệt độ trung bình trong năm và sự biến đổi 
nhiệt độ nước trong năm 
Nhiệt độ nước phụ thuộc vào nhiệt độ không khí 
và sự đối lưu về nhiệt ở trong nước. Ở các vùng lãnh 
thổ khác nhau nhiệt độ trong từng thời điểm tùy 
thuộc vào vĩ độ. Qua các tháng trong năm có sự thay 
đổi về sự chênh lệch giữa nhiệt độ nước và không 
khí. 
1.2- Phân bố nhiệt độ theo chiều ngang và theo 
chiều sâu 
Giữa các khu vực khác nhau trong một hồ nhiệt 
độ nước có thể có sự sai khác nhất định. Rõ rệt nhất 
là ở các vùng nước nông ven bờ và vùng sâu, vùng 
nước chảy và vùng nước tĩnh. (Trong những ngày 
thời tiết vừa mới chuyển từ bình thường chuyển sang 
lạnh nhất hoặc nóng nhất). Nhưng sự sai khác này 
không có ảnh hưởng lớn lắm đến nhiệt độ trung bình 
của toàn bộ khối nước của sông, hồ. Thông thường ở 
sông có nước chảy thì nhiệt độ của nước đồng đều 
hơn ở những sông hồ nước tĩnh, ít lưu động. 
  Nhiệt độ hồ chứa nước Cấm Sơn ở tầng mặt 
(0,5m) dao động trong cả năm là 12-310C; tầng giữa 
(8-15m) là từ 18-250C và tầng đáy (>15m) từ 13,5-
180C. 
  Nhiệt độ nước tháng 4 và 5 ở hồ Ba Bể ở tầng 
mặt là 25-270C; tầng đáy (18-21m) là 23-240C. 
Tóm lại: ở các mặt nước lớn ở nước ta nhiệt độ 
trung bình hàng năm khá cao. Tuy vẫn có sự biến đổi 
theo mùa nhưng biên độ biến đổi không lớn như nhiệt 
độ không khí và ở các ao, ruộng nhỏ. 
 Đồng thời một số đặc điểm về sự thay đổi nhiệt 
độ nước theo tầng là những đặc điểm đầu tiên có lợi 
về mặt sinh thái học đối với sinh vật và cá. Đối với 
những hồ cỡ lớn như Cấm Sơn, Thác Bà quanh năm 
luôn có những tầng nước ổn định thích hợp cho sự 
sinh sống của các loài thủy sinh vật và cá. 
2- Độ trong và tình hình phù xa 
Trong giới hạn thích hợp độ trong càng nhỏ 
chứng tỏ vùng nước càng giàu dinh dưỡng. Lượng 
phù xa càng lớn chứng tỏ nguồn dự trữ dinh dưỡng 
trong vùng nước càng dồi dào. 
 Ở các hồ chứa nước độ trong do đặc điểm 
thủy văn và địa hình quyết định, độ trong của các hồ 
chứa nước ở nước ta nhìn chung lớn hơn ở các hồ 
thiên nhiên và sông (trung bình khoảng 80-120cm) 
Do ảnh hưởng của chất hữu cơ, phù xa và sự 
phát triển của sinh vật phù du, độ trong của hồ chứa 
nước thời kỳ mới ngập nước thường lớn hơn khi đã 
ngập nước lâu năm, mùa lũ độ trong thấp hơn mùa 
cạn. Trong cùng một hồ độ trong thường ổn định nhất 
ở vùng trung tâm hồ, sau đến hạ lưu và biến động lớn 
nhất ở vùng thượng lưu. 
Những năm lũ lớn, sau những thời kỳ nắng hạn 
lâu ngày, nước mới có thể thay thế đại bộ phận nước 
cũ, nước hồ rất đục, độ trong rất thấp nhưng tình 
trạng này duy trì không lâu. Khi phù xa lắng đọng 
sinh vật phù du phát triển trở lại bình thường độ trong 
lại tăng lên. 
Các hồ chứa nước có độ trong thấp từ 40-80cm 
thường ứng với màu nước trong, xanh lục giàu sinh 
vật phù du. 
Ở các hồ chứa nước, nhất là các hồ nghèo dinh 
dưỡng, độ trong các khu vực của hồ có thể lên tới 
150-250cm, ứng với màu trong xanh biếc thể hiện 
bên trong chứa ít chất hữu cơ và sinh vật phù du. 
Độ trong của các hồ chứa nước nhìn chung là 
cao, tuy về điều kiện dinh dưỡng thể hiện kém hơn ở 
sông, hồ thiên nhiên, nhưng khả năng quang hợp có 
thể tiến hành ở độ sâu tương đối lớn. Chúng ta cần 
chú ý đến vấn đề này để lưu ý đánh giá đúng mức. 
3- pH trong hồ chứa 
pH của hồ chứa nước đa số biến động từ 6,8-7,5. 
Một số hồ khi mới ngập nước, giàu dinh dưỡng, thực 
vật phù du phát triển mạnh, pH có thể đạt tới 7,6-8,5 
như ở hồ Suối Hai, Đồng Tranh.... 
Những hồ chứa nước được xây dựng ở các khu 
vực đồi núi trọc, đất bạc màu thì độ pH chỉ đạt từ 5,8-
6,5. Ở những hồ này sinh vật thủy sinh có thể chịu 
đựng được nhưng phát triển không tốt và đặc biệt là 
cá chậm lớn và rất gầy, sinh vật phù du cũng nghèo. 
PH biến động theo tầng nước thể hiện tương đối 
rõ rệt. ở hồ chứa nước Cấm Sơn pH tầng mặt là 7,6-
8,2 nhưng ở tầng đáy (>20m) chỉ còn khoảng 7,0-7,1. 
4-Hàm lượng ôxy hòa tan. 
Qua kết quả nghiên cứu nhiều hồ đã xác định 
được hàm lương ôxy hòa tan trên tầng mặt biến động 
từ 4-11,5 mgO2/l, trung bình từ 6,5-8,5 mgO2/l. Hàm 
lượng ôxy hòa tan cũng có qui luật biến động tương 
tự như ở hồ thiên nhiên . Tức là cũng có qui luật biến 
dộng theo chu kỳ ngày - đêm; theo tầng nước. 
Riêng sự biến động theo tầng nước ở các hồ lớn 
và sâu (Cấm Sơn, Hòa Bình ...)do hồ rộng, điều kiện 
sóng gió lớn nên tốc độ giảm của hàm lượng ôxy hòa 
tan là tương đối chậm. 
Tóm lại: Qua các dẫn liệu nêu trên có thể thấy 
hàm lượng ôxy hòa tan trong các sông hồ mặt nước 
lớn tương đối cao, phần lớn đạt trên mức bão hòa. 
Nguyên nhân có sự hòa tan cao là do sóng, gió, 
nước chảy. Riêng ở hồ thiên nhiên và hồ chứa nước 
trong thời kỳ giàu dinh dưỡng tác dụng hô hấp và 
quang hợp của sinh vật phù du cũng đóng vai trò 
tương đối quan trọng trong việc làm tăng hàm lượng 
ôxy hòa tan trong nước. 
Mặt khác mật độ cá và thủy sinh vật trong nước 
còn thấp nên mức độ tiêu hao oxy chưa lớn. Tuy hàm 
lượng ôxy hòa tan có giảm dần, nhưng chỉ trừ tầng 
sát đáy là hàm lượng oxy quá thấp còn ở độ sâu 
khoảng 20m trở lại ôxy hòa tan vẫn đủ cung cấp cho 
các loài cá nuôi thuộc họ cá chép phát triển bình 
thường. 
5- Hàm lượng C02 hòa tan và các chất khí khác 
Tại các hồ chứa nước khí CO2 tồn tại với hàm 
lượng từ 1 - 5mg/lít, gần bằng ở sông. Xuống dưới 
các tầng sâu khí CO2 cũng tăng dần. Qua các theo dõi 
ở hồ chứa nước Cấm Sơn và các hồ khác, nước ở 
tầng đáy khu vực hạ lưu gần cửa cống của hồ chứa do 
tích lũy nhiều chất hữu cơ dưới đáy, đến mùa nóng 
nhiệt độ cao, chất hữu cơ phân hủy mạnh sinh ra hiện 
tượng thiếu Oxy, đồng thời phát sinh ra các loại khí 
độc như NH3; CH4; H2S... có mùi thối khó chịu bốc 
lên và thoát ra ở phía hạ lưu các cửa cồng khi mới xả 
nước và mất dần khi cho nước chảy nhiều ngày liên 
tục. 
6- Hàm lượng Cl- và độ cứng tổng cộng 
Ở các hồ chứa nước hàm lượng Cl- biến động 
không lớn lắm, thường từ 4-8mg/lít (trung bình 5-
6mg/lít). 
 Nhận xét chung: ở cả 3 loại vùng nước (sông, hồ 
thiên nhiên, hồ chứa nước) hàm lượng Cl- tương đối 
ổn định và không có sự chênh lệch giữa các nguồn 
nước. 
 * Độ cứng: So với phạm vi độ cứng tổng cộng và 
hàm lượng Cl- đối với sinh vật nước ngọt, các chỉ 
tiêu mà chúng ta đã phân tích được là bình thường 
(trừ một số vùng cửa sông, hồ thiên nhiên ở và các 
sông nước mặn ở ven biển). 
7- Hàm lượng đạm (NH4+; N03-), lân (PO43-) và 
lượng vật chất hữu cơ tiêu tao oxy. 
Đạm lân vô cơ là các loại muối dinh dưỡng chủ 
yếu và quan trọng nhất quyết định đến năng suất cây 
trồng trên cạn cũng như năng suất sinh vật dưới nước. 
Các chất hữu cơ trong nước là nguồn dự trữ đạm, 
lân và các chất muối khoáng khác sau khi được phân 
hủy và vô cơ hóa. Đạm, lân và các chất hữu cơ càng 
nhiều (trong phạm vi nhất định) thì sức sản xuất cũng 
như năng suất càng cao. Vì vậy, việc đánh giá một 
vùng nước thông qua các chỉ tiêu đạm, lân và các 
chất hữu cơ (vật chất tiêu hao oxy) là một điều hết 
sức cần thiết. Cũng chính vì vậy mà việc nghiên cứu 
xác định những đặc điểm về hàm lượng đạm, lân và 
các chất hữu cơ được coi trọng và phân tích có hệ 
thống hơn so với các yếu tố khác. 
Sự biến động hàm lượng N,P và mùn bã hữu cơ 
của hồ chứa nước có sự phức tạp hơn so với sông và 
hồ thiên nhiên. Sự biến động này thể thể qua các 
năm, theo mùa vụ, theo chiều ngang và theo độ sâu. 
1- Sự biến động hàm lượng muối N,P và mùn bã 
hữu cơ theo năm: 
Những hồ chứa mới ngập nước , do mùn bã hữu 
cơ và muối khoáng từ lưu vực dồn về nên hàm lượng 
muối đạm (NH4) và lân (PO4) tương đối khá. Sau một 
thời gian sử dung thì hàm lượng đạm giảm nhanh và 
lân tăng ít. 
Ví dụ: 
  Hồ Cấm Sơn, đợt điều tra năm 1971 cho kết 
quả NH4 có hàm lượng 0,115mg/lít và lân PO4 là 
0,043mg/lít. Nhưng đến năm 1993 đo lại ở hồ này 
hàm lượng đạm bằng 0, hàm lượng lân là 0,75mg/lít. 
  Các đợt điều tra ở hồ Vân Trục cũng có kết qủa 
tương tự. Năm 1973 hàm lượng đạm (NH4) là 0,05-
0,25mg/lít, lân (PO4) 0 - 0,29mg/l.Đến năm 1993 
hàm lượng muối đạm bằng 0 và lân bằng 1. 
Đối chiếu với bảng phân loại dinh dưỡng của 
Đặng Ngọc Thanh thì hầu hết hồ chứa đều nghèo 
dinh dưỡng. 
Sự biến đổi đạm, lân và mùn bã hữu cơ trong quá 
trình hình thành và sử dụng hồ chứa nước thường 
biến đổi qua 3 giai đoạn: 
1. Giai đoạn đầu (giai đoạn dinh dưỡng phát 
triển): Xảy ra vào thời kỳ đầu hồ mới ngập nước. Ở 
giai đoạn này quá trình sinh hóa diễn ra mạnh nhất, 
đặc biệt là quá trình phân hủy của vi sinh vật. ở thời 
kỳ này hàng loạt sinh vật đáy không thích nghi thì bị 
tiêu diệt, các cây cối thì bị ngập nước và chết. Tất cả 
đều được vi khuẩn phân hủy mạnh giải phóng ra một 
lượng rất lớn phốt pho và đạm amôn. Sau đó đạm 
amôn lại được chuyển hóa thành các dạng khác như 
NO2 và NO3. Mức độ dinh dưỡng của hồ thời kỳ này 
là mạnh nhất và thời gian kéo dài từ 2-3 năm đầu. 
2. Giai đoạn muối dinh dưỡng suy giảm (suy 
thoái): Giai đoạn này được thể hiện vào lúc động vật 
đáy, thực vật không thích nghi do ngập nước bị chết 
đã hoàn toàn bị vi sinh vật phân hủy và được các loài 
thủy sinh vật trong nó sử dụng hết hoặc do bị dòng 
chảy của nước cuốn trôi. Lúc này hàm lượng các 
muối dinh dưỡng trong hồ là rất nghèo nàn (như đã 
nêu trong ví dụ ở hồ Vân Trục ở trên). Đây là một 
trong những nguyên nhân làm giảm lượng sinh vật 
phù du và lượng sinh vật đáy của hồ chứa nước. Thời 
gian của gian đoạn này dài ngắn khác nhau tùy thuộc 
vào điều kiện của từng hồ và thường từ 10-15 năm. 
3. Giai đoạn phục hồi dinh dưỡng: (giai đoạn dinh 
dưỡng ổn định tăng dần). ở giai đoạn này chất đáy 
của hồ của hồ đã được tự nhiên hóa (đáy hồ đã có 
một lớp mùn bã hữu cơ ổn định), sinh vật đáy đã 
thích nghi dần và đã bắt đầu phát triển trong điều 
kiện mới của hồ. Mặc khác các qui luật biến động của 
mức nước trong hồ đã ổn định dần 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
8_0759.pdf