Mục tiêu: xác định đặc điểm nội soi, mô bệnh học và độ an toàn của 
phương pháp cắt polyp dạ dày qua nội soi.
Phương pháp:nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang được tiến hành 
từ tháng 10/2004 – 04/2007 tại bệnh viện Đại học Y Dược trên các bệnh 
nhân được cắt polyp dạ dày qua nội soi và có kết quả mô bệnh học phù hợp. 
Các dữ kiện về đặc điểm nội soi, biến chứng của thủ thuật, kết quả mô bệnh 
học được ghi nhận. Sử dụng phần mềm SPSS để lưu trữ và xử lý thống kê. 
Phép kiểm 2 bên và được xem là có ý nghĩa thống kê khi p 0,05.
Kết quả:có 70 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 48 
 13. Tỉ lệ nam:nữ là 1:1,4. Polyp dạ dày có thể gặp ở tất cả các vị trí theo 
giải phẫu của dạ dày, nhưng thường gặp nhất ở hang vị. Kích thước trung 
bình của polyp là 6 3 mm. Hai dạng mô bệnh học thường gặp nhất là 
polyp tuyến ống (42,9%) và polyp tăng sản (30%). Các polyp tuyến thường 
có kích thước lớn hơn nhưng không có sự khác biệt về phân bố định khu so 
với polyp có bản chất không phải mô tân sinh. 84,4 (59/70) trường hợp trong 
nghiên cứu có polyp dạ dày đơn độc. Không có biến chứng cắt polyp quan 
trọng: 1 trường hợp (1,4%) nghi ngờ thủng bít điều trị bảo tồn và 10 trường 
hợp (14,3%) có triệu chứng đau thượng vị xảy ra sau cắt polyp 24-48giờ.
Kết luận:Polyp tuyến dạ dày khá phổ biến và khó nhận biết trên nội 
soi. Xử trí cắt polyp dạ dày qua nội soi an toàn và không gây biến chứng 
nghiêm trọng.
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Đặc điểm nội soi và mô học của polyp dạ dày, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI VÀ MÔ HỌC CỦA POLYP DẠ DÀY 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: xác định đặc điểm nội soi, mô bệnh học và độ an toàn của 
phương pháp cắt polyp dạ dày qua nội soi. 
Phương pháp: nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang được tiến hành 
từ tháng 10/2004 – 04/2007 tại bệnh viện Đại học Y Dược trên các bệnh 
nhân được cắt polyp dạ dày qua nội soi và có kết quả mô bệnh học phù hợp. 
Các dữ kiện về đặc điểm nội soi, biến chứng của thủ thuật, kết quả mô bệnh 
học được ghi nhận. Sử dụng phần mềm SPSS để lưu trữ và xử lý thống kê. 
Phép kiểm 2 bên và được xem là có ý nghĩa thống kê khi p   0,05. 
Kết quả: có 70 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 48 
  13. Tỉ lệ nam:nữ là 1:1,4. Polyp dạ dày có thể gặp ở tất cả các vị trí theo 
giải phẫu của dạ dày, nhưng thường gặp nhất ở hang vị. Kích thước trung 
bình của polyp là 6   3 mm. Hai dạng mô bệnh học thường gặp nhất là 
polyp tuyến ống (42,9%) và polyp tăng sản (30%). Các polyp tuyến thường 
có kích thước lớn hơn nhưng không có sự khác biệt về phân bố định khu so 
với polyp có bản chất không phải mô tân sinh. 84,4 (59/70) trường hợp trong 
nghiên cứu có polyp dạ dày đơn độc. Không có biến chứng cắt polyp quan 
trọng: 1 trường hợp (1,4%) nghi ngờ thủng bít điều trị bảo tồn và 10 trường 
hợp (14,3%) có triệu chứng đau thượng vị xảy ra sau cắt polyp 24-48giờ. 
Kết luận: Polyp tuyến dạ dày khá phổ biến và khó nhận biết trên nội 
soi. Xử trí cắt polyp dạ dày qua nội soi an toàn và không gây biến chứng 
nghiêm trọng. 
ABSTRACT 
THE ENDOSCOPIC AND PATHOLOGICAL CHARACTERISTICS 
OF GASTRIC POLYPS 
Quach Trong Duc, Tran Kieu Mien, Nguyen Thuy Oanh, Hua Chi 
Minh, Hua Thi Ngoc Ha 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 – 2007: 80 
- 85 
Aims: to determine the endoscopic and pathological characteristics of 
gastric polyps. 
Methods: A prospective, cross-sectional study was conducted from 
Oct 2004 to Apr 2007 on patients underwent gastric polypectomy at the 
University Medical Center. Endoscopic and pathological findings as well as 
polypectomy complications were recorded. SPSS software was used to store 
and analyze data. A test was considered of significant if p   0,05. 
Results: There were 70 patients with the mean age of 48   13. Male: 
female ratio was 1:1.4. Gastric polyp could be found in any sites but most 
commonly in the antrum. The two most common forms were tubular adenoma 
(42.9%) and hyperplastic polyp (30%). Gastric adenomas were usually bigger 
in size compared with non-neoplastic polyps. But their site distributions were 
not significantly different. 84.4% (59/70) of cases had single polyp. There 
were 1 case (1.4%) suspected of closed perforation and 10 cases (14.3%) with 
bothersome epigastric pain after polypectomy which were successfully 
managed without operations. 
1 BM Nội, Đại Học Y Dược 
2 Khoa Nội soi, Bệnh Viện Đại Học Y Dược 
3 BM Ngoại, Đại Học Y Dược 
4 BM Giải Phẫu Bệnh, Đại Học Y Dược 
 Conclusions: Gastric adenomas were common among gastric polyps. 
Gastric polypectomy was a safe procedure without major complications. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Polyp dạ dày là một chẩn đoán thỉnh thoảng vẫn gặp tuy xuất độ 
không thường xuyên như bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng và ung thư dạ dày. 
Các nghiên cứu trên thế giới tập trung nhiều vào polyp đại – trực tràng do 
con đường hình thành ung thư ở vị trí này liên quan chặc chẽ với polyp 
tuyến ở vị trí này trong khi ở dạ dày thì đại đa số các trường hợp ung thư 
liên quan đến H. pylori, viêm teo dạ dày và chuyển sản ruột. Tuy vậy, polyp 
ở dạ dày cũng có tiềm năng hóa ác tương tự như polyp ở vị trí khác trên 
đường tiêu hóa. Nguy cơ ác tính cao nhất là ở dạng polyp tuyến, đặc biệt với 
polyp tuyến có kích thước lớn và ở người lớn tuổi(1). Các nghiên cứu trên thế 
giới còn cho thấy ngay cả một số polyp tăng sản cũng có khả năng kèm các 
ổ nghịch sản và ung thư khu trú trên polyp(2,3,4). Khả năng hóa ác khi theo 
dõi polyp dạ dày chiếm khoảng 1,3% các trường hợp(5). Vì vậy, dạng bệnh lý 
này cần được quan tâm đúng mức hơn và có thái độ xử trí thích hợp để ngăn 
ngừa nguy cơ ung thư hóa về sau. Do xuất độ polyp dạ dày gặp không 
thường xuyên nên kinh nghiệm về dạng bệnh lý này còn rời rạc, khu trú ở 
một số ít ca lâm sàng gặp ở từng cá nhân. Y văn trong nước hiện chưa có 
báo cáo nào về đặc điểm bệnh lý này. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
nhằm xác định đặc điểm nội soi, bản chất mô bệnh học và những tai biến của 
thủ thuật cắt polyp dạ dày qua nội soi. 
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Phương pháp tiền cứu, mô tả cắt ngang tiến hành tại bệnh viện Đại 
Học Y Dược từ 11/2004 – 04/2007. 
Tiêu chuẩn nhận bệnh 
- Các bệnh nhân đến khám và được chỉ định nội soi tiêu hóa trên tại 
bệnh viện Đại Học Y Dược. 
- Có tổn thương dạng polyp trên nội soi tiêu hóa trên. 
- Đồng ý thực hiện thủ thuật cắt polyp qua nội soi. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Không đồng ý cắt polyp qua nội soi 
- Không có rối loạn đông cầm máu chưa điều chỉnh được và đang sử 
dụng Aspirin và kháng đông. 
- Có kết quả không phù hợp với polyp dạ dày. 
Cách thức tiến hành 
Sử dụng máy nội soi Olympus EXERA GIF 160. Các bệnh nhân đến 
nội soi tiêu hóa trên và phát hiện polyp dạ dày qua nội soi được giải thích 
tình hình bệnh với bệnh nhân và người nhà. Nếu thân nhân và bệnh nhân 
đồng ý thì tiến hành thủ thuật cắt polyp qua nội soi. Chúng tôi chỉ yêu cầu 
xét nghiệm đông cầm máu khi polyp >10mm hoặc bệnh nhân có tiền sử rối 
loạn đông cầm máu. Với các polyp còn lại chúng tôi tiến hành thủ thuật 
ngay. Máy đốt được sử dụng là Olympus PSD 10. Chúng tôi cài đặt máy với 
dòng cắt-đốt và cường độ cài đặt ở mức từ 2-2,5. Sử dụng thòng lọng hoặc 
kềm sinh thiết nóng để cắt polyp. Bệnh nhân được sử dụng sucrafate dạng 
gel ngay sau thủ thuật và dùng tiếp thuốc ức chế bơm proton với liều chuẩn 
sau đó. Thời gian theo dõi ở bệnh viện trung bình khoảng 2-3 giờ sau đó 
được cho về kèm số điện thoại liên lạc với bệnh viện. Polyp dạ dày sau khi 
được cắt ra được cố định bằng Formol 10%, được nhuộm theo phương pháp 
HE tại bộ môn Giải phẫu bệnh thuộc Đại học Y dược TP HCM. 
Phân tích và xử lý thống kê 
Các dữ liệu được lưu trữ và xử lý bằng phần mềm SPSS (phiên bản 
13.0, SPSS Inc, Chicago, Ill). Sử dụng các phép đếm tần suất để mô tả các 
tỉ lệ, trung bình. Sử dụng phương pháp phân tích phương sai ANOVA một 
yếu tố để so sánh tuổi, kích thước giữa nhóm polyp tuyến và các polyp 
khác. Sử dụng  2 để so sánh sự khác biệt về vị trí polyp, dạng cuống và 
bệnh lý đường tiêu hóa trên phối hợp. Thực hiện phép kiểm 2 bên và xem 
là có ý nghĩa thống kê khi p   0,05. 
KẾT QUẢ 
Có 70 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn nhận bệnh và loại trừ. 
Tuổi trung bình của bệnh nhân là: 48   13. Sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê giữa tuổi và giới của nhóm bệnh nhân bị polyp tuyến và polyp 
có bản chất không phải mô tân sinh. 
Tỉ lệ nam:nữ là 1:1,4. 
Nội soi 
Polyp dạ dày có thể gặp ở tất cả các vị trí theo giải phẫu của dạ dày, 
nhưng tỉ lệ gặp nhiều nhất là ở vùng hang vị. Đại đa số trường hợp chúng 
tôi gặp là có polyp dạ dày đơn độc nhưng khoảng 15,6% trường hợp có 
đồng thời nhiều polyp. Kích thước trung bình của polyp là 6   3 mm với 
hơn phân nữa số trường hợp polyp có kích thước   5mm. Polyp lớn nhất 
gặp trong nghiên cứu này có kích thước 15mm. Đa số polyp dạ dày ở dạng 
không cuống. Tổn thương nội soi phối hợp thường gặp nhất là viêm dạ dày 
(bảng 1). 
Bảng 1: Đặc điểm nội soi của polyp dạ dày 
Đặc điểm nội soi N % 
Vị trí 
polyp 
Tâm 
vị 
Đáy vị 
Thân 
vị 
Hang 
vị 
 2 
 5 
19
44
 2,9 
7,1 
27,1 
62,9 
Đặc điểm nội soi N % 
Số 
lượng polyp 
1 
2-4 
  10 
59
 8 
 3 
84,4 
11,4 
 4,2 
Kích 
thước polyp 
Kích 
thước trung 
bình 
  5 
mm 
 6-9 
mm 
  10 
mm 
 6 
  3 mm 
40
19
11
57,1 
27,2 
15,7 
Cuống Có 12 17,1 
Đặc điểm nội soi N % 
polyp cuống 
Không 
cuống 
58 82,9 
Đặc điểm nội soi N % 
Tổn 
thương phối 
hợp trên nội 
soi 
Viêm 
TQ trào 
ngược 
Viêm 
dạ dày 
Loét 
dạ dày 
Loét 
tá tràng 
Bình 
thường 
 1 
59
 2 
 3 
 5 
 1,4 
84,5 
 2,8 
 4,2 
 7,1 
Mô bệnh học 
Hai dạng thường gặp nhất là polyp tuyến ống và polyp tăng sản (bảng 
2). Không có trường hợp ung thư nào được phát hiện. Chúng tôi gặp 1 trường 
hợp polyp tuyến ống nhung mao ở vùng hang vị có nghịch sản vừa ở bệnh 
nhân nam 58 tuổi với kích thước 10mm. Bệnh nhân này có viêm dạ dày do H. 
pylori. 
Mối tương quan giữa đặc điểm nội soi và bản chất mô bệnh học 
Khi khảo sát mối tương quan giữa đặc điểm nội soi và bản chất mô 
bệnh học của polyp dạ dày, chúng tôi nhận thấy rất khó phân biệt polyp 
tuyến và các polyp khác có bản chất không phải mô tân sinh dựa trên hình 
ảnh nội soi thông thường. Kết quả phân tích cho thấy cả polyp tuyến và 
các dạng polyp khác đều có thể xuất hiện ở tất cả các vị trí giải phẫu dạ 
dày (biểu đồ 1) và sự khác biệt theo phân bố định khu không có ý nghĩa 
thống kê. Tuy bệnh lý đường tiêu hóa trên phối hợp cũng không khác biệt 
đạt ý nghĩa thống kê, chúng tôi nhận thấy tất cả các bệnh nhân trong 
nghiên cứu có polyp phối hợp với loét dạ dày đều có kết quả mô bệnh học 
là polyp tuyến; trong khi tất cả các bệnh nhân có polyp dạ dày phối hợp 
loét tá tràng hoặc viêm trào ngược dạ dày thực quản đều có mô bệnh học 
là polyp tăng sản hoặc tăng sản hốc tuyến khu trú (biểu đồ 2). Điểm giúp 
phân biệt polyp tuyến và các polyp không có bản chất là mô tăng sinh 
trong nghiên cứu này là kích thước của polyp: với kích thước polyp càng 
lớn thì xác xuất gặp polyp tuyến sẽ tăng lên (biểu đồ 3). 
Bảng 2: Đặc điểm mô bệnh học của polyp dạ dày 
Mô bệnh 
học 
N % 
Polyp tuyến 
ống 
30 42,9 
Polyp tuyến 
ống nhung mao 
1 1,4 
Polyp tuyến 
nhung mao 
1 1,4 
Polyp tăng 
sản 
21 30 
Polyp tuyến 
đáy vị 
7 10 
Tăng sản hốc 8 11,4 
Mô bệnh 
học 
N % 
tuyến khu trú 
Polyp thiếu 
niên 
2 2,9 
Tổng cộng 70 100 
Biểu đồ 1: Phân bố định khu của polyp dạ dày 
 Biểu đồ 2: Bệnh lý đuờng tiêu hóa trên phối hợp 
Biểu đồ 3: Phân bố kích thước polyp dạ dày theo bản chất mô bệnh 
học 
Tai biến của điều trị bằng nội soi 
Chúng tôi không có trường hợp nào chảy máu đáng kể và có triệu 
chứng xuất huyết trên lâm sàng sau cắt polyp. Một số trường hợp có rướm 
máu nhẹ chân vết cắt polyp và được xử trí tiếp bằng dùng đầu thòng lọng với 
dòng điện đông cầm máu tiếp đạt hiệu quả cầm máu tốt trước khi ngưng thủ 
thuật nên chúng tôi không xếp vào nhóm có tai biến xuất huyết. Có 1 trường 
hợp (1,4%) polyp không cuống chân rộng đường kính 12mm ở vùng hang vị 
nghi ngờ thủng bít hoặc có bỏng xuyên thành gây ra kích thích phúc mạc với 
biểu hiện với bệnh nhân đau bụng nhiều sau khi cắt polyp. Kiểm tra phim X 
quang bụng không chuẩn bị không thấy liềm hơi dưới hoành. Bệnh nhân 
được nằm theo dõi 1 ngày sau thì ổn định, giảm đau, bụng mềm và được cho 
xuất viện và tái khám 4 tuần sau trong tình trạng ổn định. Có 10 trường hợp 
(14,3%) bệnh nhân có triệu chứng đau quặn thượng vị xảy ra sau cắt polyp 
24-48giờ với cường độ tăng hơn so với trước khi cắt polyp và hết dần sau 
đó. 
BÀN LUẬN 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng với 
nghiên cứu của Muehdorfer và cộng sự làm tại Đức năm 2001(6). Nghiên cứu 
của Muehdorfer cũng cho thấy polyp dạ dày thường gặp ở nữ (nam:nữ = 
1:1,4), tập trung ở vùng hang vị (61%), kế đến là thân vị (31,2%), tâm vị 
(5%) và đáy vị (2,8%). Dạng phổ biến nhất trên nội soi cũng là dạng không 
cuống chiếm 73,4%. Theo y văn thế giới, tỉ lệ ung thư hóa của polyp dạ dày 
thay đổi tùy bản chất mô học của polyp: khoảng 2,1% đối với polyp tăng 
sản, 5% đối với polyp tuyến ống và 28,5-40% đối với polyp tuyến nhung 
mao(7,8). Do vậy xác định bản chất mô bệnh học rất quan trọng vì đóng vai 
trò quyết định thái độ xử trí và theo dõi bệnh nhân sau này. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy 2 dạng polyp dạ dày thường gặp nhất là polyp 
tuyến ống và polyp tăng sản. Tuy vậy chúng tôi nhận thấy rất khó phân biệt 
polyp tuyến với các polyp khác dựa trên hình ảnh nội soi đơn thuần ngoại 
trừ yếu tố gợi ý là polyp tuyến thường có kích thước lớn. Nghiên cứu của 
Muehdorfer cho thấy polyp tuyến thường ở dạng không cuống và niêm mạc 
bề mặt trơn láng, trong khi các polyp khác không có bản chất là mô tân sinh 
thường có bề mặt trợt, xuất huyết(6); tuy nhiên theo hướng dẫn thực hành lâm 
sàng năm 2006 của Hội Nội Soi Tiêu Hóa Mỹ thì vẫn không thể xác định 
chắc chắn được dạng mô học của polyp dạ dày dựa trên hình ảnh nội soi và 
cần phải cắt hoặc sinh thiết tổn thương nghi ngờ polyp để xác định bản chất 
mô bệnh học(9). Muehdorfer so sánh giá trị chẩn đoán mô bệnh học dựa trên 
mẫu mô sinh thiết polyp bằng kềm với bệnh phẩm trọn polyp được cắt qua 
nội soi(6). Các mẫu bệnh phẩm trong nghiên cứu này được cắt rất kỹ mỗi 
4 m. Nghiên cứu cho thấy kết quả mô bệnh học không tương hợp trong 21 
trường hợp (9,5%). Có 13 trường hợp (5,9%) sai lệch nghiêm trọng: 7 kết 
quả dựa trên sinh thiết là polyp không tân sinh trong khi kết quả khi cắt trọn 
polyp là polyp tuyến / ung thư; 6 trường hợp kết quả dựa trên sinh thiết là 
polyp tăng sản nhưng kết quả cắt trọn polyp cho thấy có những ổ ung thư 
biểu mô tuyến hoặc u carcinoid khu trú. Kết quả này làm cho bác sĩ nội soi 
thiên về hướng tiếp cận nên cắt trọn polyp qua nội soi ngay từ đầu hơn là 
sinh thiết trước và chờ kết quả mô bệnh học để định hướng xử trí tiếp. Trên 
thực tế, chọn lựa cách thức tiếp cận nào tốt hơn cho bệnh nhân còn phải tùy 
vào mức độ an toàn và cảm giác khó chịu cho bệnh nhân khi điều trị cắt 
polyp dạ dày qua nội soi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có trường 
hợp tai biến này xảy ra ở nhóm polyp dạ dày có kích thước   10mm dù 
không cần làm thử nghiệm đông cầm máu (ở bệnh nhân không có tiền sử rối 
loạn đông cầm máu và sử dụng thuốc kháng đông trước đó). Điều này chứng 
tỏ cắt polyp dạ dày qua nội soi khá an toàn cho nhóm bệnh nhân này và có 
thể thực hiện ngay ở lần nội soi phát hiện polyp. Đại đa số trường hợp chúng 
tôi thực hiện được nhanh chóng thủ thuật này dưới gây tê họng tại chỗ với 
xylocain 10% mà không gây khó chịu gì thêm nhiều cho bệnh nhân. Tiền mê 
thêm với Midazolam 1mg tiêm tĩnh mạch chỉ cần trong trường hợp tiên đoán 
khả năng thực hiện cắt polyp có thể kéo dài như polyp ở tâm vị hoặc polyp 
lớn. Kinh nghiệm chúng tôi cho thấy yếu tố quan trọng để tránh gây khó 
chịu cho bệnh nhân là sau khi khảo sát hết toàn bộ dạ dày và chuẩn bị cắt 
polyp thì nên hút bớt hơi trong dạ dày bệnh nhân. Đối với polyp có kích 
thước 10 -15 mm, chúng tôi chỉ gặp 1 biến chứng nghi ngờ thủng bít (1,4%). 
Do đa số polyp dạ dày ở dạng không cuống nên việc tiêm phồng dưới niêm 
mạc sẽ rất có lợi vì giúp lấy trọn được tổn thương và tránh tổn thương bỏng 
sâu lớp cơ bên dưới giúp hạn chế tỉ lệ biến chứng này. Nghiên cứu của 
Muehdorfer trên 222 trường hợp polyp với kích thước trung bình 10,5mm 
(3-50mm, khoảng tin cậy 95%) cũng cho thấy tỉ lệ biến chứng hầu như 
không có ở nhóm   10mm tương tự như nghiên cứu của chúng tôi. Tỉ lệ 
biến chứng tăng dần ở nhóm có kích thước lớn. Tuy nhiên ngoại trừ 1 trường 
hợp nghi thủng bít, 1 trường hợp phải phẫu thuật cầm máu, 2 trường hợp 
phải truyền máu thì các trường hợp khác đều chỉ cần giải quyết ổn định bằng 
phương pháp cầm máu qua nội soi. Như vậy chúng tôi cho rằng thái độ thích 
hợp nhất để xử trí polyp dạ dày ở nước ta là cắt qua nội soi ngay từ đầu, tuy 
nhiên cần lưu ý là đối với các polyp có kích thước trên 10mm thì cần phải 
chuẩn bị xét nghiệm đông cầm máu cẩn thận, chuẩn bị đầy đủ phương tiện 
cầm máu và tốt nhất là nên được tiến hành bởi một nhà nội soi có kinh 
nghiệm trong xử trí xuất huyết tiêu hóa . 
KẾT LUẬN 
Polyp dạ dày có thể gặp ở bất cứ vị trí nào trên dạ dày. Polyp tuyến dạ 
dày khá phổ biến và khó phân biệt với các polyp có bản chất không phải mô 
tân sinh dựa trên hình ảnh nội soi quy ước. Xử trí cắt polyp dạ dày qua nội 
soi an toàn, không có biến chứng nghiêm trọng, có thể tiến hành ở những 
polyp   10mm ngay ở lần nội soi phát hiện ra polyp mà không cần thử xét 
nghiệm chức năng đông cầm máu (nếu bệnh nhân không dùng kháng đông 
hoặc có tiền sử rối lọan đông cầm máu). Tuy nhiên cần tiến hành thận trọng 
với các polyp có kích thước lớn hơn 10mm và với đầy đủ phương tiện cầm 
máu qua nội soi. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 55_7393.pdf 55_7393.pdf