Đánh giá hiệu quả của điều trị kết hợp solifenacine và tamsulosin trên “triệu chứng đường niệu dưới” do tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt

Đặt vấn đề: Trong đa số trường hợp, triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tình TTL (IIL) bao

gồm cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích. Như vậy, trong điều trị nội khoa, cũng cần thiết sử dụng kết

hợp 2 nhóm thuốc: chẹn α1 và kháng muscarinic.

Mục đích: Đánh giá hiệu quả của sự kết hợp Solefinacin với Tamsulosin trong điều trị triệu chứng đường

niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL, trên những bệnh nhân có cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích,

đã được điều trị bằng Tamsulosin nhưng không cải thiện nhóm triệu chứng kích thích

pdf6 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của điều trị kết hợp solifenacine và tamsulosin trên “triệu chứng đường niệu dưới” do tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 366 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA ĐIỀU TRỊ KẾT HỢP SOLIFENACINE VÀ TAMSULOSIN TRÊN “TRIỆU CHỨNG ĐƯỜNG NIỆU DƯỚI” DO TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT Đào Quang Oánh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Trong đa số trường hợp, triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tình TTL (IIL) bao gồm cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích. Như vậy, trong điều trị nội khoa, cũng cần thiết sử dụng kết hợp 2 nhóm thuốc: chẹn α1 và kháng muscarinic. Mục đích: Đánh giá hiệu quả của sự kết hợp Solefinacin với Tamsulosin trong điều trị triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL, trên những bệnh nhân có cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích, đã được điều trị bằng Tamsulosin nhưng không cải thiện nhóm triệu chứng kích thích. Bệnh nhân – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng, mô tả cắt ngang. Được đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân nam, tuổi ≥ 50 t, có triệu chứng đường tiết niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL. Tổng điểm IPSS ≥ 10, trong đó tổng điểm nhóm triệu chứng kích thích ≥ 5 và đã được điều trị trong 4 – 6 tuần với Tamsulosin nhưng vẫn còn khó chịu vì tồn tại triệu chứng kích thích bàng quang.Thêm Solifenacin trong 12 tuần.Sau 12 tuần, đánh giá lại sự thay đổi điểm của các triệu chứng..Ghi nhận tổng điểm IPSS, tổng điểm tắc nghẽn, tổng điểm chứa đựng, điểm chất lượng sống (QoL), Qmax và thể tích tồn lưu (PVR). Đánh giá sự thay đổi. Kết quả: Tổng cộng có 54 bệnh nhân, tuổi TB = 62,5 ± 8,6 t. Sau 12 tuần điều trị kết hợp Solifenacin 5 mg/ngày và Tamsulosin 0,4 mg/ngày: tất cả các triệu chứng chứa đựng (tiểu lắt nhắt, tiểu gấp, tiểu đêm) và triệu chứng sau tiểu (tiểu không hết) đều cải thiện, có ý nghĩa thống kê. Những triệu chứng tắc nghẽn không thay đổi nhiều. Sự thay đổi về chất lượng sống có ý nghĩa thống kê. Không thay đổi có ý nghĩa thống kê về Qmax và thể tích nước tiểu tồn lưu (PVR). Kết luận: Việc thêm Solifenacine, kết hợp với Tamsulosin có hiệu quả cải thiện triệu chừng kích thích trên bệnh nhân có triệu chừng đường niệu dưới. Từ khóa: Solifenacin, Tamsulosin, triệu chứng đường niệu dưới, tăng sinh lành tính TTL.. ABSTRACT EVALUATION OF THE ADD-ON EFFECT OF SOLIFENACIN TO TAMSULOSIN FOR LOWER URINARY TRACT SYMPTOMS DUE TO BPH Dao Quang Oanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 366 - 371 Introduction: Irritative or Overactive bladder (OAB) symptoms are commonly observed in men with lower urinary tract symptoms (LUTS) suggestive of benign prostatic hyperplasia (BPH). Thus, we require thnhan@ctump.edu.vn d the combination of two drugs: α1-blockers and anti-muscarinic in the medical treatment Objectives: To investigate the add-on effect of solifenacin in patients with remaining OAB symptoms after tamsulosin monotherapy for LUTS due to BPH. Patients – Methods: Descriptive, cross-sectional study. To be included in the study all male patients, aged ≥ * Khoa niệu B, Bệnh viện Bình Dân TpHCM. Tác giả liên lạc: TS.BS.Đào Quang Oánh ĐT: 0902410255 Email: daoquangoanh53@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 367 50 years old, with LUTS due to BPH. Total IPSS score ≥ 10, in which the OAB symptoms ≥ 5 and after 4-6 weeks receiving tamsulosin still have remaining bladder irritative symptoms. Add Solifenacin in 12 weeks.After 12 weeks, re-evaluate the changes of symptoms. Noting total IPSS score, total obstructive symptoms score, total irritative symptoms score, quality of life (QOL) index, Qmax and post-void residual volume (PVR). Results: Totally 54 patients, aged 62.5 ± 8.6 years old. After 12 weeks of combined therapy Solifenacin 5 mg / day and tamsulosin 0.4 mg / day: all storage symptoms (frequency, urgency, nocturia) and post-micturition symptom (incomplete emtying) are improved. The obstructive symptoms have not changed much. The change in QoL is significant. No statistical changes in Qmax and PVR. Conclusions: The additional administration of solifenacin to patients with LUTS treated with tamsulosin, is effective in controlling remaining irritative symptoms. Keywords: Solifenacin, Tamsulosin, LUTS, BPH. ĐẶT VẤN ĐỀ Bàng quang tăng hoạt gồm các triệu chứng tiểu lắt nhắt, tiểu đêm, tiểu gấp... là hiện tượng thường thấy kết hợp trong triệu chứng đường niệu dưới do tuyến tiền liệt (TTL) ở bệnh nhân nam lớn tuổi. Bảng thang điểm quốc tế IPSS cho thấy cần phải khảo sát và đánh giá mức độ trên cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích. Đây là vấn đề cơ bản trong chọn lựa quyết định điều trị và đánh giá hiệu quả điều trị. Nhiều thống kê trên thế giới cho thấy trong đa số các trường hợp thì kết hợp triệu chứng là thường gặp nhất. Tamsulosin là 1 thuốc chẹn α1 chuyên biệt trên hệ niệu được sử dụng phổ biến trong điều trị tăng sinh lành tính TTL. Solefinacin là một thuốc thuộc nhóm kháng nuscarinic thường dùng để điều trị bàng quang tăng hoạt. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng và đánh giá hiệu quả của Solifenacin trên những bệnh nhân có triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL đã được điều trị bằng Tamsulosin nhưng qua theo dõi không thấy có thuyên giảm các triệu chứng kích thích. Mục tiêu Đánh giá hiệu quả của sự kết hợp Solefinacin với Tamsulosin trong điều trị triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL, trên những bệnh nhân có cả 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích, đã được điều trị bằng Tamsulosin nhưng không cải thiện nhóm triệu chứng kích thích. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu lâm sàng, mô tả cắt ngang. Tiêu chuẩn chọn bệnh - Bệnh nhân nam, tuổi ≥ 50t, có triệu chứng đường tiết niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL. Tổng điểm IPSS ≥ 10, trong đó tổng điểm nhóm triệu chứng kích thích (tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đêm) ≥ 5. - Ghi nhận: điểm chất lượng sống (QoL), thể tích TTL, Qmax (niệu dòng đồ), thể tích nước tiểu tồn lưu (PVR, đo bằng siêu âm bụng sau khi đi tiểu) - Đã được điều trị trong 4 – 6 tuần với Tamsulosin 0,4 mg/ngày nhưng vẫn còn khó chịu vì triệu chứng kích thích bàng quang. - Được xem như còn triệu chứng kích thích nhưng không thuyên giảm khi tổng các triệu chứng chứa đựng (tiểu lắt nhắt nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đêm) vẫn không thuyên giảm, còn ≥ 5 điểm. Tiêu chuẩn loại trừ - Khi có tiêu chuẩn chỉ định sinh thiết TTL vì nghi ngờ ung thư (theo hướng dẫn của hội Tiết niệu – Thận học VN) như: có nhân cứng khi thăm khám trực tràng, PSA > 10 ng/ml, PSA = 4 – 10 ng/ml và tỷ lệ PSA tự do/tổng > 20%. - Thể tích TTL > 40 ml - Có dấu hiệu tắc nghẽn khá nặng: Qmax< 5 ml/s, hay PVR > 100 ml. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 368 - Không dung nạp được Solifenacin vì tác dung phụ (khô miệng, táo bón, bứt rứt...) Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị - Tiếp tục cho bệnh nhân Tamsulosin 0,4 mg/ngày, và thêm Solifenacin 5 mg/ngày trong 12 tuần - Sau 12 tuần, đánh giá lại sự thay đổi điểm của mỗi triệu chứng trong 7 triệu chứng. Ghi nhận tổng điểm IPSS, tổng điểm tắc nghẽn, tổng điểm chứa đựng, điểm chất lượng sống (QoL), Qmax, thể tích tồn lưu (PVR). - Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. KẾT QUẢ Tổng cộng có 54 bệnh nhân, tuổi TB = 62,5 ± 8,6t. Không có bệnh nhân nào bỏ thuốc hay ngưng điều trị vì tác dụng phụ. Tổng số điểm IPSS khi chưa điểu trị là 19,6 ± 7,3 (14 – 22), sau 4 – 6 tuần đơn trị bằng Tamsulosin 0,4 mg/ngày thì giảm còn 15,5 ± 6,2 (10 – 20) (p< 0,01). Thay đổi có ý nghĩa thống kê. Sự thay đổi của các triệu chứng tắc nghẽn từ 10,4 ± 3,6, giảm xuống 6,7 ± 3,7 (p< 0,01). Sau 12 tuần, điều trị tiếp, kết hợp Solifenacin và Tamsulosin: - Tất cả các triệu chứng chứa đựng (tiểu lắt nhắt, tiểu gấp, tiểu đêm) và triệu chứng sau tiểu (tiểu không hết) đều cải thiện, có ý nghĩa thống kê. - Những triệu chứng tắc nghẽn còn lại không thay đổi nhiều. Sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê. - Sự thay đổi về chất lượng sống có ý nghĩa thống kê - Không thay đổi có ý nghĩa thống kê về Qmax và PVR. Bảng 1: Sự thay đổi của các điểm triệu chứng sau 12 tuần điều trị kết hợp Solifenacin và Tamsulosin Triệu chứng Trước Sau P Phải rặn 1,0 ± 1,3 0,8 ± 1,2 P = 0,52 Tia yếu 2,4 ± 1,8 2,0 ± 1,5 P = 0,06 Ngắt quãng 1,5 ± 1,3 1,4 ± 1,3 P = 0,64 Không hết 2,0 ± 1,7 1,4 ± 1,3 P < 0,05 Nhiều lần 2,9 ± 1,4 1,8 ± 1,0 P < 0,01 Tiểu gấp 2,8 ± 1,5 1,3 ± 1,2 P < 0,01 Tiểu đêm 3,1 ± 1,2 2,2 ± 1,2 P < 0,01 IPSS tống xuất 6,7 ± 3,7 8,9 ± 2,8 5,2 ± 3,2 5,3 ± 2,6 P < 0,05 P < 0,01 IPSS chứa đựng 15,5 ±6,2 10,4 ±5,1 P < 0,01 IPSS tổng QoL 4,2 ± 1,2 3,0 ± 1,2 P < 0,05 Bảng 2: Sự thay đổi của Qmax và PVR sau 12 tuần điều trị kết hợp Solifenacin và Tamsulosin Trước Sau P Qmax (ml/giây) 10,9 ± 6,2 13,3 ± 8,9 >0,05 Thể tích tồn lưu (PVR) 32,6 ± 23,3 40,8 ± 22,7 >0,05 BÀN LUẬN Lý do những triệu chứng tắc nghẽn cải thiện không đáng kể ở giai đoạn sau, khi điều trị kết hợp Những bệnh nhân được chọn đưa vào nghiên cứu là bệnh nhân đã được cho uống Tamsulosin trong 4 – 6 tuần trước. Thời gian này là thời gian đầu tác dụng của thuốc chẹn α1 nhằm cải thiện các triệu chứng thuộc nhóm tắc nghẽn. Theo nhiều nghiên cứu, các triệu chứng này giảm nhanh trong vòng 4 – 6 tuần đầu, sau đó giảm chậm hơn. Số liệu cũng cho thấy, tông số điểm IPSS, sau 4 – 6 tuần đơn trị bằng Tamsulosin giảm từ 19,6 ± 7,3 còn 15,5 ± 6,2; và tổng số điểm tắc nghẽn từ 10,4 ± 3,6, giảm xuống 6,7 ± 3,7. Những thay đổi này có ý nghĩa thống kê. Nếu tiếp tục điều trị với Tamsulosin thì các triệu chứng tắc nghẽn cũng sẽ cải thiện chậm ở thời gian sau. Sau 12 điều trị tiếp, có thêm Solifenacin 5 mg/ngày, tổng số điểm tắc nghẽn thay đổi chậm và ít hơn, từ 6,7 ± 3,7 giảm còn 5,2 ± 3,2. Sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê nếu tính từng triệu chứng một, tuy nhiên nếu gộp tất cả lại thì tổng điểm thay đổi có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nhìn thoáng qua, ta thấy có vẻ như có sự thay đổi không đồng bộ giữa triệu chứng chủ quan và dấu hiệu khách quan. Trong cùng thời gian, các số liệu về điểm triệu chứng cho thấy có sự cải thiện tốt hơn, dù ít, khi có kết hợp với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 369 Solifenacin. Ngược lại, các kết quả khách quan thể hiện chức năng tống xuất như Qmax và thể tích tồn lưu nước tiểu thì lại có vẻ xấu đi. Tuy nhiên, phân tích trên số liệu thì những thay đổi này cũng không có ý nghĩa thống kê. Những triệu chứng kích thích cải thiện đáng kể ở giai đoạn sau, khi thêm Solifenacin Những bệnh nhân trong nghiên cứu là bệnh nhân có triệu chứng đường niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL và có cà 2 nhóm triệu chứng tắc nghẽn và kích thích, với tổng điểm IPSS trung bình là 19,6 ± 7,3 (14 – 22 điểm). Như vậy những bệnh nhân này có điểm IPSS xếp loại từ trung bình đến nặng, và thiên về hướng nặng là chủ yếu. Khi sử dụng tamsulosin trong 4 – 6 tuần thì có sự cải thiện đáng kể các triệu chứng tắc nghẽn. Những triệu chứng kích thích không thuyên giảm bao nhiêu và vẫn còn ≥ 5 điểm. Sau khi thêm Solifenacin 5 mg/ngày trong 12 tuần, tất cả 3 triệu chứng thuộc nhóm kích thích: tiểu nhiều lần, tiểu gấp và tiểu đêm đều giảm có ý nghĩa thống kê, và đương nhiên tổng điểm triệu chứng kích thích cũng giảm rõ. Qmax có giảm và thể tích nước tiểu tồn lưu có tăng, nhưng không đáng kể. Cũng không có trường hợp nảo bị bí tiểu cấp hay bỏ điều trị vì tác dụng phụ. Việc này cho thấy Solifenacin có hiệu quả và tương đối an toàn để điều trị triệu chứng “chứa đựng” đường niệu dưới do tăng sinh lành tính TTL trong những trường hợp không cải thiện với thuốc chẹn α1. Kết quả một số công trình sử dụng điều trị kết hợp chẹn α1+ kháng muscarinic Công trình của Lee (2004)(7) thêm Tolterodin 4mg/ngày trên 44 bệnh nhân nam có các triệu chứng tắc nghẽn kết hợp kích thích (BOO + OAB), kiểm định bằng niệu động học, đã sử dụng 2 – 4mg/ngày Doxazosin đơn trị trong 3 tháng. 32 TH (73%) có cải thiện với IPSS giảm hơn 3 điểm sau khi thêm Tolterodine. Chapple (2009)(2) báo cáo kết quả một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi và có so sánh với giả dược, thực hiện trên 652 bệnh nhân, chia làm 2 nhóm: giả dược + chẹn α1 (n = 323) và tolterodine ER 4mg + chẹn α1 (n = 329) trong 12 tuần. Nhóm sử dụng tolterodine ER có sự cải thiện rõ về các triệu chứng chứa đựng và chất lượng sống. Không có thay đổi đáng kể về Qmax và thể tích tồn lưu PVR. Kaplan (2009)(5,6) báo cáo hiệu quả và dung nạp solifenacin trên những trường hợp không cải thiện triệu chứng kích thích (tiểu lắt nhắt ≥8 lần / 24 giờ và có ít nhất 1 lần tiểu gấp) sau khi đã điều trị bằng Tamsulosin 0,4mg/ngày trong ≥ 4 tuần. Tổng cộng 398 bệnh nhân chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm, điều trị trong 12 tuần với solifenacin 5mg + tamsulosin (n = 202) hay giả dược + tamsulosin (n = 195). Không có sự cải thiện rõ về triệu chứng tiểu lắt nhắt (−1,05 so sánh với −0,67, P = 0,135) và tổng điểm chứa đựng (−2,80 so với −2,33, P = 0,074). Tuy nhiên triệu chứng tiểu gấp lại giảm rõ (−2,16 so với −1,10, P < 0,001). Có 7 trường hợp bị bí tiểu cấp (3%) trong nhóm solifenacin + tamsulosin và không có trường hợp nào trong nhóm giả dược + tamsulosin. Tác giả kết luận rằng điều trị kết hợp solifenacin + tamsulosin được dung nạp khá tốt nhưng phải cẩn thận đối với những bệnh nhân có triệu chứng tắc nghẽn nặng và có thể tích tôn lưu lớn. Chen (2010)(3), Blake-James (2006)(1), MacDiarmid(8) tra cứu y văn, nhận thấy có nhiều loại thuốc kháng muscarinic (oxybutynin, propiverine, darifenacin, tolteridine, solifenacin) đã được sử dụng kết hợp với các loại thuốc chẹn α1 (doxazosin, alfuzosin, tamsulosin) để điều trị triệu chứng đường niệu dưới trên cà bệnh nhân nam và nữ. Thuốc chẹn α1 cải thiện triệu chứng tắc nghẽn, thuốc kháng muscarinic cải thiện triệu chứng kích thích. Những thuốc kháng muscarinic thường sử dụng trong điều trị kết hợp là tolteridine và solifenacin. Cần chú ý những trường hợp có bế tắc nặng qua khảo sát niệu động học, và cẩn trọng đối với thể tích tồn lưu lớn hay tiền sử đã bí tiểu. Tuy nhiên, sự dung nạp tương đối khá tốt và nguy cơ bí tiểu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 370 không cao đối với những trường hợp chưa có dấu hiệu bế tắc nặng(6). Trong những bệnh nhân tăng sinh lành tính TTL, hiệu quả nhất trên nhóm nào? Nên sử dụng liều kháng muscarinic như thế nào? Tăng sinh lành tính TTL là hiện tượng xảy ra trên người lớn tuổi, có thể có nhiều bệnh kết hợp. Ngoài ra, tăng sinh lành tính TTL cũng là một bệnh đa dạng, vì vậy, đáp ứng thuốc cũng khác nhau và hiệu quả cũng khác nhau. Khi thêm Solifenacin vào kết hợp với Tamsulosin, thì ai được hưởng lợi nhiều nhất là câu hỏi được Obata và cs (2013)(9) đặt ra. Nghiên cứu thực hiện trên 130 bệnh nhân ≥ 45 tuổi đã điều trị bằng tamsulosin 0,2 mg /ngày trong hơn 8 tuần, sau đó được cho thêm solifenacin 5 mg/ngày trong 12 tuần. Kết quả là tổng điểm IPSS, chất lượng sống (QoL), điểm kích thích cải thiện rõ sau khi thêm Solifenacin. Phân tích đa biến cho thấy thể tích TTL là yếu tố liên quan. Có sự khác biệt có ý nghĩa có ý nghĩa thống kê về sự thay đổi trị số IPSS tổng (−3,5 so sánh với −0,5; P = 0,002) giữa 2 nhóm thể tích TTL 30 ml. Ngoài ra đái tháo đường cũng là một biến ảnh hưởng, triệu chứng giảm ít hơn nếu bị đái tháo đường (−0,6 so với −2,1; P < 0,001). Các tác giả kết luận rằng điều trị kết hợp chẹn α1 + kháng muscarinic đạt hiệu quả rõ hơn đối với những trường hợp có TTL nhỏ và không bị đái tháo đường. Ngoài ra, đối với những bệnh nhân có triệu chứng bàng quang kích thích không thuyên giảm với đơn trị bằng thuốc chẹn α1, khi thêm thuốc kháng muscarinic thì sử dụng liều như thế nào để đạt hiệu quả tối đa mà cùng lúc có thể giảm thiểu tác dụng phụ. Câu hỏi này được Park và Gon Kim (2012)(10) giải đáp bằng cách so sánh kết quả ở những công trinh có sử dụng thuốc với các liều khác nhau. Ví dụ, đối với Solifenacin thì có các liều đã được sử dụng trong nghiên cứu là 2,5; 5; 6; 9 và 10 mg. Cách sử dụng hợp lý nhất là khởi sự dùng từ liều thấp nhất. Nếu chưa đạt hiệu quả như mong muốn thì tăng liều dần cho đến khi đạt được sự thuyên giảm tối đa mà tác dụng phụ còn trong mức độ bệnh nhân vẫn chấp nhận được(4,6,10). KẾT LUẬN Đa số các trường hợp “triệu chứng đường niệu dưới” có sự kết hợp của triệu chứng tắc nghẽn và kích thich. Điều trị kết hợp cải thiện cả 2 nhóm triệu chứng và tăng chất lượng sống. Sự kết hợp Tamsulosin và Solifenacin là một chọn lựa thường được dùng. Tác dụng phụ có thể có nhưng ít và chấp nhận được. Hiệu quả cao hơn nếu sử dụng trên những bệnh nhân không có biểu hiện tắc nghẽn nặng, thể tích TTL đừng lớn quá, không có bệnh đái tháo đường kết hợp. Nên áp dụng liều thuốc tăng dần cho đến khi đạt được hiệu quả mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Blake-James BT, Rashidian A, Ikeda Y, Emberton M (2006). The role of anticholinergics in men with lower urinary tract symptoms suggestive of benign prostatic hyperplasia: a systematic review and meta-analysis. BJU Int 99: 85-96. 2. Chapple C, Herschorn H, Abrams P, Sun F, Brodsky M, Guan Z (2009). Tolterodine treatment improves storage symptoms suggestive of overactive bladder in men treated with α- blockers. Eur Urol 56(3): 534–543. 3. Chen CY, Kuo HC (2010). Safety and efficacy of addition of an alpha-blocker to anti-muscarinic treatment in patients with overactive bladder. Incont Pelvic Floor Dysfunct 4(3): 65-68. 4. Gratzke C, Andersson KE (2013). Alpha-blockers and antimuscarinics for male Lower Urinary Tract Symptoms: The search goes on. Eur Urol 63: 166 – 168. 5. Kaplan SA, Roehrborn CG, Rovner ES, Carlsson M, Bavendam T, Guan Z (2006). Tolterodine and tamsulosin for treatment of men with lower urinary tract symptoms and overactive bladder: a randomized controlled trial. JAMA 296: 2319–2328. 6. Kaplan SA, McCammon K, Fincher R, Fakhoury A, He W (2009). Safety and tolerability of solifenacin add-on therapy to α-blocker treated men with residual urgency and frequency. J Urol 182(6): 2825–2830. 7. Lee Y, Kim HK, Lee SJ, Koh JS, Suh HJ, Chancellor MB (2004). Comparison of doxazosin with or without tolterodine in men with symptomatic bladder outlet obstruction and an overactive bladder. BJU Int 94(6):817–820. 8. MacDiarmid SA, Peters KM, Chen A et al (2008). Efficacy and safety of extended-release oxybutynin in combination with tamsulosin for treatment of lower urinary tract symptoms in men: randomized, double-blind, placebo-controlled study. Mayo Clin Proc 83: 1002–1010. 9. Obata J, Matsumoto K, Yamanaka H, Ninomiya A, Nakamura S (2013). Who would benefit from Solifenacin add-on therapy to Tamsulosin for overactive bladder symptoms associated with benign prostatic hyperplasia? LUTS 5: 145–149. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 371 10. Park WH, Gon Kim H (2012). Low-dose anticholinergic combination therapy in male benign prostatic hyperplasia patients with overactive bladder symptoms. LUTS 4: 102–109. Ngày nhận bài báo: 28/10/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/12/2013 Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf366_371_4121.pdf