Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  473
ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ  
PHƯƠNG PHÁP LẤY HUYẾT KHỐI BẰNG DỤNG CỤ CƠ HỌC  
SOLITAIRE Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO  
Vũ Anh Nhị*, Phạm Nguyên Bình** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Đối với bệnh nhân bị đột quỵ thiếu máu não, việc đạt tái thông mạch máu não thì gắn liền với kết 
cục lâm sàng tốt hơn. Solitaire là một thiết bị lấy huyết khối qua stent được thiết kế để đạt tái thông mạch máu 
não nhanh chóng và cho thấy kết quả lâm sàng rất hứa hẹn. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học 
Solitaire ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não. 
Phương pháp nghiên cứu: 36 bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não nhập viện trong cửa sổ thời gian 8 giờ 
tính từ lúc khởi phát triệu chứng sẽ được đưa vào nghiên cứu. Dụng cụ lấy huyết khối được sử dụng là thiết bị 
tái thông mạch máu não Solitaire. Tiêu chí chính của nghiên cứu là kết cục lâm sàng ở thời điểm sau 3 tháng 
được đánh giá bằng thang điểm Rankin hiệu chỉnh. 
Kết quả: Ở thời điểm sau 3 tháng, 20 bệnh nhân (55,6%) đạt kết cục lâm sàng tốt (mRS ≤2); tỷ lệ tử vong 
là 16,7%. Tỷ lệ đạt tái thông mạch máu não (TIMI ≥2) là 88,9%. Tỷ lệ xuất huyết não trong nghiên cứu là 36,1 
%, trong đó xuất huyết não có triệu chứng là 11,1 %. 
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy, lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire là an toàn và hiệu quả. 
Thiết bị Solitaire là một lựa chọn đầy hứa hẹn trong điều trị đột quỵ thiếu máu não bằng phương pháp can thiệp 
nội mạch. 
Từ khóa: Đột quỵ thiếu máu não, lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học, can thiệp nội mạch, thiết bị Solitaire. 
ABSTRACT 
SAFETY AND EFFICACY OF MECHANICAL THROMBECTOMY 
WITH SOLITAIRE DEVICE FOR ISCHEMIC STROKE 
Vu Anh Nhi, Pham Nguyen Binh 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 473 ‐ 478 
Background: Prompt recanalization of cerebral arteries in patients diagnosed with ischemic stroke is 
known to be associated with a better clinical outcome. Solitaire as a novel, stent retriever revascularization device 
is designed to achieve rapid flow restoration showed very promising clinical results. 
Objective: The aim of this study was to evaluate the safety and efficacy of mechanical thrombectomy 
with solitaire device for ischemic stroke. 
Methods:  Thirty six patients presenting within 8h from stroke symptom onset were enrolled. 
Mechanical recanalization was performed using a Solitaire Flow Restoration revascularization device. The 
primary endpoint of the study was the clinical outcome rated with the help of the modified Rankin Scale (mRS) at 
3 months. 
Results: Twenty patients (55.6%) showed a good clinical outcome (mRS ≤2); the death rate was 16,7%. 
Successful recanalization (TIMI ≥2) was 88.9%. Intracranial hemorrhage and symptomatic hemorrhage rate was 
36.1% and 11.1%, respectively. 
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM   ** Bệnh viện Nhân Dân 115  
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Nguyên Bình ĐT: 0909333538 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 474
Conclusion: The study suggested that mechanical thrombectomy using a Solitaire stent was safety and 
efficacy. The Solitaire device is a promissing thrombectomy tool for endovascular treatment in ischemic stroke. 
Keywords: ischemic stroke, mechanical thrombectomy, endovascular treatment, Solitaire device. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ  là nguyên nhân gây  tử vong đứng 
hàng  thứ ba và  là nguyên nhân phổ biến nhất 
gây  tàn phế vĩnh viễn  ở các nước công nghiệp 
hóa. Trong bệnh lý đột quỵ, đột quỵ thiếu máu 
não chiếm  tỷ  lệ cao nhất vào khoảng 85%. Đột 
quỵ  thiếu máu  não  gây  ra  bởi  tình  trạng  tắc 
nghẽn  động mạch  não  cấp  tính,  dẫn  đến  suy 
giảm dòng máu nuôi  tại vùng nhu mô não do 
động mạch  đó  chi phối. Mục  tiêu  chính  trong 
điều trị đột quỵ thiếu máu não giai đoạn sớm là 
nhanh  chóng  tái  thông mạch máu  não  bị  tắc 
nghẽn do huyết khối nhằm  cứu  lấy vùng nhu 
mô  não  đang  bị  tổn  thương(11).  Tiêu  sợi  huyết 
tĩnh mạch dùng chất hoạt hóa plasminogen mô 
tái tổ hợp (rtPA) được xem là điều trị chuẩn mực 
đối với bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não nhập 
viện  sớm  trong  cửa  sổ  4,5  giờ  đầu  tính  từ  lúc 
khởi phát triệu chứng. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 
3‐10 % bệnh nhân  đột quỵ  thiếu máu não giai 
đoạn cấp được điều trị tiêu sợi huyết tĩnh mạch 
do  đa phần  các bệnh nhân  đến  trễ nằm ngoài 
cửa  sổ  điều  trị  hoặc  do  có  những  chống  chỉ 
định(1,2). Thêm vào đó,  tiêu sợi huyết  tĩnh mạch 
có  tỷ  lệ  tái  thông mạch máu não còn  chưa  cao 
đặc biệt  đối với  trường hợp  tắc mạch máu  lớn 
(5,9‐13,9%  đối  với  tắc  động mạch  cảnh  trong, 
28,9‐54,7 % đối với tắc động mạch não giữa, 30‐
80 %  đối  với  tắc  hệ  động mạch  cột  sống  thân 
nền)(8,9,12) và thường bị tái tắc mạch máu sau điều 
trị tiêu sợi huyết tĩnh mạch(5). Những bệnh nhân 
này được xem là ứng viên cho điều trị can thiệp 
lấy huyết khối bằng dụng  cụ  cơ học. Cho  đến 
nay, có nhiều dụng cụ cơ học đã được phát triển 
để điều trị lấy huyết khối, tuy vậy chưa có dụng 
cụ  nào  được  chấp  nhận  rộng  rãi  như  là một 
dụng  cụ  tái  thông mạch máu não  chuẩn mực. 
Thiết  bị  tái  thông mạch máu  Solitaire  là một 
dụng  cụ  cơ học mới,  lấy huyết khối qua  stent, 
được xem như  là một ứng viên nổi  trội với ưu 
điểm  khôi  phục  dòng  máu  ngay  lập  tức  khi 
bung stent tạm thời, có thể lấy hoàn toàn huyết 
khối, đạt tỷ lệ tái thông mạch máu cao. Tại Việt 
Nam, lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học chưa 
được phổ biến rộng  rãi và chưa có nghiên cứu 
nào về thiết bị lấy huyết khối Solitaire trong điều 
trị đột quỵ thiếu máu não. Mục đích của nghiên 
cứu này là đánh giá tính an toàn (thông qua tỷ lệ 
tử vong và tỷ lệ xuất huyết não) và tính hiệu quả 
(thông qua tỷ lệ đạt kết cục lâm sàng tốt và tỷ lệ 
đạt tái thông mạch máu não) của phương pháp 
lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire ở 
bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não. Các dữ kiện 
này  giúp  đánh  giá một  phương  pháp  điều  trị 
mới trong bệnh cảnh đột quỵ thiếu máu não và 
như vậy  có  thể giúp  các bác  sĩ  thực hành  lâm 
sàng có thêm một giải pháp điều trị. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu  là nghiên cứu  tiến cứu,  loạt ca 
liên tiếp mô tả dọc, 36 bệnh nhân được đưa vào 
nghiên  cứu  trong  khoảng  thời  gian  từ  tháng 
4/2012  đến  tháng  3/2013.  Bệnh  nhân  có  triệu 
chứng đột quỵ nhập viện trong cửa sổ thời gian 
8 giờ tính từ  lúc khởi phát triệu chứng sẽ được 
thăm khám  lâm sàng, đánh giá  tình  trạng chức 
năng thần kinh và được chụp cắt lớp vi tính sọ 
não  nhằm  loại  trừ  xuất  huyết  não. Bệnh  nhân 
đến sớm trong 4,5 giờ đầu sẽ được điều trị tiêu 
sợi  huyết  tĩnh mạch.  Bệnh  nhân  có  chống  chỉ 
định hoặc thất bại với  tiêu sợi huyết  tĩnh mạch 
hoặc đến trễ sau thời điểm 4,5 giờ sẽ được đánh 
giá tình trạng mạch máu não bằng chụp cắt lớp 
vi  tính  có  bơm  thuốc  cản  quang  hoặc  cộng 
hưởng từ mạch máu não. Nếu có bằng chứng tắc 
nghẽn mạch máu  lớn nội  sọ  (động mạch  cảnh 
trong, động mạch não giữa (đoạn M1, M2), hoặc 
động mạch cột sống hay  thân nền và  thỏa  tiêu 
chuẩn  chọn  mẫu  (bảng  1)  sẽ  được  đưa  vào 
nghiên cứu. Những bệnh nhân này sẽ được tiến 
hành can thiệp nội mạch lấy huyết khối tại đơn 
vị  chụp mạch máu  xóa  nền.  Thiết  bị  được  sử 
dụng là thiết bị tái thông mạch máu não Solitaire 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  475
(ev3, Irvine, California). Kết quả tái thông mạch 
máu não được đánh giá bằng thang điểm TIMI 
(Thrombolysis  In  Myocardial  Infarction).  Sau 
điều trị can thiệp, bệnh nhân được chăm sóc và 
theo dõi tiếp tại đơn vị đột quỵ. Bệnh nhân được 
thăm  khám  và  đánh  giá  chức  năng  thần  kinh 
theo  thang điểm NIHSS và  thang điểm Rankin 
hiệu chỉnh ở các thời điểm sau 24 giờ, sau 7 ngày 
(hoặc  khi  xuất  viện  nếu  sớm  hơn)  và  sau  3 
tháng. Tại thời điểm 24 giờ, bệnh nhân còn được 
đánh giá  tình  trạng mạch máu não bằng  chụp 
cộng hưởng từ não, chụp cắt lớp vi tính có bơm 
thuốc cản quang hoặc siêu âm xuyên sọ. Trong 
thời  gian  nằm  viện,  nếu  tình  trạng  thần  kinh 
diễn tiến xấu hơn, bệnh nhân ngay lập tức được 
chụp  cắt  lớp  vi  tính  sọ  não  để  đánh  giá  tổn 
thương não. 
Tiêu chí chính của nghiên cứu là kết cục lâm 
sàng  ở  thời  điểm  sau  3  tháng  được  đánh  giá 
bằng  thang  điểm Rankin hiệu  chỉnh  (modified 
Rankin scale). Kết cục lâm sàng được đánh giá là 
tốt khi mRS ≤2. Tiêu chí phụ là tỷ lệ đạt tái thông 
mạch máu não được đánh giá bằng thang điểm 
TIMI  với  định  nghĩa  đạt  tái  thông mạch máu 
não khi TIMI  ≥2. Tiêu  chí  đánh giá  sự an  toàn 
của phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ 
cơ học Solitaire là biến cố xuất huyết não mà chủ 
yếu là xuất huyết não có triệu chứng và tỷ lệ tử 
vong do mọi nguyên nhân  tại  thời  điểm  sau 3 
tháng. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bảng thu thập số liệu 
Xử lý số liệu 
Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần 
mềm SPSS 16.0 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 4/2012 đến tháng 12/2013, có tổng 
cộng  36  bệnh  nhân  tham  gia  vào  nghiên  cứu. 
Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 61,5 ± 
13,8 tuổi (37‐86 tuổi). Nam giới có 25 bệnh nhân, 
chiếm  tỷ  lệ  69,4%;  nữ  giới  có  11  bệnh  nhân, 
chiếm  tỷ  lệ 30,6%. Điểm NIHSS  trung bình  lúc 
nhập viện  là 17,8 ± 5,5. Trong số 36 bệnh nhân, 
có 21 bệnh nhân được điều trị tiêu sợi huyết tĩnh 
mạch kết hợp với  điều  trị  lấy huyết khối bằng 
dụng cụ cơ học Solitaire; 15 bệnh nhân được can 
thiệp  nội mạch  bằng  dụng  cụ  cơ  học  Solitaire 
đơn  thuần mà không có điều  trị  tiêu sợi huyết 
tĩnh mạch trước đó. Tất cả bệnh nhân đều có tắc 
động mạch lớn nội sọ với điểm TIMI bằng 0 lúc 
nhập  viện.  Tắc  động  mạch  cảnh  trong  là  17 
trường hợp,  động mạch não giữa  là 17  trường 
hợp và 2 trường hợp tắc động mạch thân nền. 
Tính an toàn 
Biến  cố  xuất  huyết  não  chung  ghi  nhận  ở 
13/36 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 36,1%. Xuất huyết 
não có triệu chứng là 4/36 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 
11,1%.  Tỷ  lệ  tử  vong  do mọi  nguyên  nhân  là 
16,7% (6/36 bệnh nhân). 
Tính hiệu quả 
Tỷ  lệ  đạt  kết  cục  lâm  sàng  tốt  (mRS  ≤2)  ở 
thời  điểm  sau  3  tháng  là  55,6%  (20/36  bệnh 
nhân). Tỷ lệ đạt tái thông mạch máu (TIMI ≥2) là 
88,9% (32/36 bệnh nhân), trong đó đạt tái thông 
hoàn  toàn  TIMI  3  chiếm  33,3%  (12/36  bệnh 
nhân). 
BÀN LUẬN 
Nghiên  cứu  này  nhằm mục  đích  đánh  giá 
tính an  toàn và hiệu quả của phương pháp  lấy 
huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire.  
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân phục hồi 
chức  năng  thần  kinh  tốt,  tương  đương  điểm 
Rankin hiệu chỉnh 0‐2 tại thời điểm ba tháng  là 
55,6%. Kết quả này  là  tương đương với nghiên 
cứu  SWIFT  với  nhóm  can  thiệp  bằng  thiết  bị 
Solitaire  (58,2%)(6) và  tốt hơn  so với  các nghiên 
cứu  PROACT  II  (40%), MERCI  (27,7%), Multi‐
MERCI  (36%),  Penumbra  Pivotal  Stroke 
(25%)(3,4,7,10). Sự cải thiện kết cục lâm sàng có thể 
được giải  thích  là do  trong khi  lấy huyết khối, 
thiết bị Solitaire có khả năng tạo ra một kênh tái 
thông tạm thời bên trong cục huyết khối và ngay 
lập tức khôi phục dòng tưới máu não, giúp giảm 
thể  tích  vùng  nhồi máu  não.  Đây  là một  đặc 
điểm mà các  thiết bị như Merci hay Penumbra 
không thể có được. Ngoài ra, trong nghiên cứu 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 476
của chúng tôi, tỷ lệ đạt tái thông mạch máu não 
rất cao (88,9%). Theo một phân tích gộp của Rha 
và  Saver,  việc  tái  thông mạch máu não  có  thể 
làm  tăng khả năng  đạt kết quả phục hồi  chức 
năng  thần kinh  tốt gấp 4,4  lần(8). Thêm vào đó, 
chúng tôi ghi nhận tuổi cũng có liên hệ đến kết 
cục lâm sàng với điểm Rankin hiệu chỉnh 0‐2 ở 
bệnh nhân  trên  70  tuổi  chiếm  tỷ  lệ  20 %  thấp 
hơn so với nhóm bệnh nhân dưới 70 tuổi (80 %) 
và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  = 
0,009).Tuổi  trung  bình  dân  số  nghiên  cứu  của 
chúng tôi (61,5) thấp hơn so với tuổi trung bình 
của  các nghiên  cứu khác như PROACT  II  (64), 
MERCI  (67),  Multi‐MERCI  (68),  Penumbra 
Pivotal Stroke (64), SWIFT (67). Bệnh nhân càng 
lớn tuổi thì càng nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch 
và các bệnh  lý phối hợp khác đi kèm  làm  tăng 
nguy cơ  tàn phế và  tử vong. Điều này cũng có 
thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị. 
Tiêu sợi huyết tĩnh mạch có mặt hạn chế  là 
tỷ  lệ tái thông mạch máu não còn chưa cao đối 
với  trường hợp  tắc mạch máu  lớn, do  đó  làm 
giảm kết quả phục hồi chức năng thần kinh sau 
ba tháng ở nhóm bệnh nhân này. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, tắc động mạch cảnh trong là 
17 trường hợp, động mạch não giữa là 17 trường 
hợp và 2  trường hợp  tắc  động mạch  thân nền. 
Tỷ  lệ  đạt  tái  thông mạch máu  là  32/36  trường 
hợp (88,9%). Kết quả này là tương đương với kết 
quả trong nghiên cứu SWIFT (89%) và vượt trội 
so với tỷ lệ tái thông trong nghiên cứu PROACT 
II  (66%), MERCI  (48%), Multi MERCI  (69,5%), 
Penumbra Pivotal Stroke  (81,6%). Nếu xét  theo 
vị trí động mạch bị tắc, tỷ lệ tái thông mạch máu 
này  là  88%  đối  với  động mạch  cảnh  trong  và 
động  mạch  não  giữa,  và  100%  đối  với  động 
mạch  thân  nền.  Điều  này  cho  thấy  thiết  bị 
Solitaire  rất hiệu quả  trong việc  lấy huyết khối 
và và tái thông mạch máu bị tắc nghẽn, đặc biệt 
là các động mạch  lớn nội sọ vốn  thường bị  tắc 
nghẽn do cục huyết khối kích thước lớn. Một lý 
do có thể giải thích cho tính hiệu quả của thiết bị 
là do Solitaire là stent tự bung; khi được bung ra 
sẽ ép và gắn chặt vào cục huyết khối  ở những 
điểm bắt chéo trên bộ khung của stent, giúp cho 
kéo  cục huyết khối một  cách  chắc  chắn hơn  là 
thiết bị Merci, vốn có hình dạng xoắn ốc, gắn kết 
vào  huyết  khối  lỏng  lẻo  hơn  và  có  khuynh 
hướng dễ trượt xuyên qua cục huyết khối hơn là 
kéo toàn bộ huyết khối(6). Vì vậy thiết bị Solitaire 
giúp tái thông mạch máu nhanh chóng và hiệu 
quả. 
Trong  nghiên  cứu,  chúng  tôi  ghi  nhận  có 
13/36  trường  hợp  có  xuất  huyết  não,  chiếm 
36,1%, trong đó xuất huyết não có triệu chứng là 
4  trường hợp  (11,1%). Xuất huyết não  có  triệu 
chứng là biến chứng quan trọng vì có liên quan 
đến tỷ lệ tử vong và tàn phế cao. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, xuất huyết não có triệu chứng 
có liên hệ đến kết cục lâm sàng (p = 0,031). Trong 
bốn bệnh nhân xuất huyết não  có  triệu  chứng, 
ba bệnh nhân đạt điểm Rankin hiệu chỉnh 5 và 
một tử vong, không có bệnh nhân nào có kết cục 
điểm Rankin  hiệu  chỉnh  0‐2.  Tỷ  lệ  xuất  huyết 
não có triệu chứng trong nghiên cứu của chúng 
tôi là tương đương với các nghiên cứu PROACT 
II,  Multi  MERCI  và  Penumbra  Pivotal  Stroke 
nhưng lại cao hơn hẳn so với nghiên cứu SWIFT. 
Có  thể  lý giải điều này  là do  trong nghiên cứu 
của chúng tôi, có 21/36 bệnh nhân (58,3%) được 
điều trị tiêu sợi huyết tĩnh mạch kết hợp với lấy 
huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire, trong 
khi  ở  nghiên  cứu  SWIFT  phần  lớn  chỉ  dùng 
dụng cụ đơn thuần. Liều rtPA càng cao thì tỷ lệ 
xuất  huyết  não  có  triệu  chứng  sẽ  càng  tăng. 
Solitaire với bản chất là một stent nên khi được 
bung ra sẽ bao và ép  lấy huyết khối,  làm giảm 
sự  kết  dính  của  huyết  khối  vào  thành mạch, 
đồng  thời  tạo áp  lực  lên  thành mạch  ít hơn  so 
với  thiết  bị Merci,  hạn  chế  tổn  thương mạch 
máu(6). Điều này làm cho thiết bị Solitaire có thể 
tái thông mạch máu an toàn và ít gây xuất huyết 
não. 
Tỷ lệ tử vong ở thời điểm ba tháng do tất cả 
các  nguyên  nhân  là  6/36  (16,7%). Kết  quả  này 
tương  đương  so  với  kết  quả  của  nghiên  cứu 
SWIFT  là  17%  và  thấp  hơn  đáng  kể  so  với 
nghiên  cứu  PROACT  II,  Penumbra  Pivotal 
Stroke, Multi‐MERCI và MERCI lần lượt là 25 %, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  477
32,8 %, 34% và 43 %  . Tỷ  lệ tử vong thấp trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  sự an  toàn 
của  thiết bị Solitaire so với dùng phương pháp 
tiêu  sợi huyết  động mạch,  thiết bị Merci và hệ 
thống Penumbra. 
KẾT LUẬN 
Dựa  trên  kết  quả  nghiên  cứu,  Solitaire  là 
thiết bị  can  thiệp nội mạch  đáng  tin  cậy,  cung 
cấp thêm một giải pháp điều trị cho những bệnh 
nhân đột quỵ thiếu máu não có chống chỉ định 
hoặc  thất  bại  với  tiêu  sợi  huyết  tĩnh  mạch. 
Phương pháp  lấy huyết khối bằng dụng  cụ  cơ 
học  Solitaire  đã  cho  thấy  tính  an  toàn  và  tính 
hiệu quả  trong điều  trị đột quỵ  thiếu máu não 
bằng phương pháp can thiệp nội mạch. 
Bảng 1: Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tiêu chuẩn nhận vào Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp. 
NIHSS ≥8 và ≤30. 
Thời gian: khởi phát - điều trị ≤8 giờ. 
Chống chỉ định hoặc thất bại với tiêu sợi huyết tĩnh mạch hoặc 
đến trễ sau thời điểm 4,5 giờ. 
 Bệnh nhân có tắc động mạch cảnh trong, động mạch não giữa, 
động mạch thân nền hoặc cột sống – CTA/MRI/DSA 
NIHSS ≥30 hoặc hôn mê. 
Triệu chứng thần kinh cải thiện nhanh chóng trước điều trị. 
Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú. 
Bệnh nhân dị ứng thuốc cản quang. 
Tăng huyết áp với huyết áp tâm thu ≥185 mmHg hoặc huyết 
áp tâm trương ≥110 mmHg mà chưa được kiểm soát tốt. 
Đang dùng kháng đông với INR ≥3.0 
Tiểu cầu ≤30.000 
Đường huyết ≤50 mg/dL 
Động mạch uốn khúc ngoằn ngoèo không tiếp cận được 
mạch máu bị tắc. 
Thời gian sống còn ≤90 ngày. 
CT scan sọ hoặc MRI não: xuất huyết não, hiệu ứng choán 
chỗ hoặc u nội sọ 
Chụp hình mạch máu não: bóc tách động mạch cảnh, tắc 
nghẽn hoàn toàn động mạch cảnh đoạn cổ hoặc viêm mạch 
Bảng 2 : So sánh giữa nghiên cứu của chúng tôi với các nghiên cứu khác 
PROACT II MERCI Multi-MERCI Penumbra SWIFT Nghiên cứu này 
Số bệnh nhân 121 141 164 125 58 36 
Tuổi (năm) 64 67 68 64 67 61,5 
Điểm NIHSS trung bình 17 20 19 18 17 18 
mRS ≤2 sau 3 tháng (%) 40 27,7 36 25 58,2 55,6 
Tỷ lệ tái thông (%) 66 48 69,5 81,6 89 88,9 
Tỷ lệ XHN có TC (%) 10,9 7,8 9,8 11,2 1,7 11,1 
Tỷ lệ XHN chung (%) 35,9 35,5 38,7 28 15,5 36,1 
Tỷ lệ tử vong (%) 25 43,5 34 32,8 17 16,7 
Ghi chú: XHN: xuất huyết não, XHN có TC: xuất huyết não có triệu chứng 
Bảng 3: Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Đặc điểm 
Tuổi (năm) 61,5 ± 13,8 
Giới nam 25 (69,4%) 
Điểm NIHSS trung bình 17,8 
Tăng huyết áp 26 (72,2 %) 
Đái tháo đường 61 (6,7 %) 
Hút thuốc lá 11 (30,6 %) 
Rối loạn lipid máu 16 (44,4 %) 
Đặc điểm 
Vị trí động mạch tắc 
Động mạch cảnh trong 17 (47,2%) 
Động mạch não giữa 17 (47,2%) 
Động mạch thân nền 2 (5,6%) 
Bệnh nhân có điều trị TSH TM 21 (58,3 %) 
Thời gian khởi phát - can thiệp (phút) 231,7 ± 71,6 
Ghi chú: TSH TM: tiêu sợi huyết tĩnh mạch; KP‐TT: 
thời gian từ lúc khởi phát triệu chứng đột quỵ đến 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 478
lúc đạt tái thông mạch máu não; giá trị ±: trung bình 
± độ lệch chuẩn 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abou‐Chebl A (2010). Endovascular treatment of acute ischemic 
stroke may be safely performed with no time window limit in 
appropriately selected patients. Stroke, 41, pp. 1996‐2000. 
2. Bambauer  KZ,  Johnston  SC,  Bambauer  DE,  Zivin  JA  (2006). 
Reasons  why  few  patients  with  acute  stroke  receive  tissue 
plasminogen activator. Arch Neurol, 63, pp. 661‐664. 
3. del Zoppo GJ,Higashida RT, Furlan AJ, Pessin MS, Rowley HA, 
Gent  M  (1998).  PROACT:  a  phase  II  randomized  trial  of 
recombinant pro‐urokinase by direct arterial delivery  in acute 
middle cerebral artery stroke. Stroke, 29, (1), pp. 4‐1. 
4. Gobin YP, Starkman S, Duckwiler GR, et al (2004). MERCI 1: a 
phase  1  study  ofmechanical  embolus  removal  in  cerebral 
ischemia. Stroke, 35, pp. 2848‐2854. 
5. Grotta J.C, Alexandrov A.V (2002). Arterial reocclusion in stroke 
patients treated with intravenous tissue plasminogen activator. 
Neurology, 59, pp. 862‐867. 
6. Jeffrey L Saver, Elad I Levy, Tudor G Jovin, Blaise Baxter, Raul 
G Nogueira, Wayne Clark, Ronald Budzik, Osama O Zaidat, for 
the  SWIFT  Trialists  (2012).  Solitaire  flow  restoration  device 
versus  the  Merci  Retriver  in  patients  with  acute  ischaemic 
stroke  (SWIFT):  a  randomised,  parallel‐group,  non‐inferiority 
trial. The Lancet, 380, pp. 1241‐1249. 
7. Penumbra  Pivotal  Stroke  Trial  Investigators  (2009).  The 
penumbra pivotalstroke trial: safety and effectiveness of a new 
generation of mechanical devices for clot removal in intracranial 
large vessel occlusive disease. Stroke, 40, pp. 2761–2768. 
8. Rha  JH,  Saver  JL  (2007).  The  impact  of  recanalization  on 
ischemic  stroke outcome: a meta‐analysis. Stroke,  38, pp.  967–
973. 
9. Saqqur M,  Uchino  K,  Demchuk  AM, Molina  CA,Garami  Z, 
Calleja  S,  Akhtar  41.N,  Orouk  RO,  Salam  A,Shuaib  A, 
Alexandrov AV, and  for CLOTBUST  Investigators  (2007). Site 
of arterial occlusion identified by transcranial Doppler predicts 
the response to intra‐venous thrombolysis for stroke. Stroke, 38, 
pp. 948‐954. 
10. Smith  WS,  Sung  G,  Saver  J,  et  al  (2008).  Mechanical 
thrombectomy  for  acute  ischemic  stroke:final  results  of  the 
multi MERCI trial. Stroke, 39, pp. 1205‐1212. 
11. Vũ Anh Nhị (2005). Mạch máu não và Tai biến mạch máu não. 
In: Vũ Anh Nhị. Thần kinh học, pp. 232‐255, Nhà xuất bản Y học 
TP Hồ Chí Minh. 
12. Wolpert SM, Bruckmann H, Greenlee R, Wechsler L, Pessin MS, 
del Zoppo GJ, and the rt‐PA Acute Stroke Study Group (1993). 
Neuroradiologic evaluation of patients with acute stroke treated 
with  recombinant  tissue  plasminogen  activator.  AJNR Am J 
Neuroradiol, pp. 3‐13. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014