Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  39
ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ SÓT BƯỚU TRONG CẮT ĐỐT NỘI SOI  
BƯỚU BÀNG QUANG CHƯA XÂM LẤN CƠ 
Phan Đức Hữu*, Đào Quang Oánh** 
TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề: Ung  thư  bàng  quang  chưa xâm  lấn  cơ  có  tỉ  lệ  đáng  kể  còn  sót bướu  sau  cắt  đốt nội  soi 
(CĐNS). Hơn nữa, có từ 4‐25% chẩn đoán sai giai đoạn ở cắt đốt nội soi lần đầu, điều này nói lên rằng cắt đốt 
nội soi duy nhất một lần trong điều trị bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ thường là chưa đủ và cần phải cắt đốt 
nội soi lại sớm. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ sót bướu trong cắt đốt nội soi bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ bằng phương 
pháp cắt đốt nội soi lại sớm và đánh giá các yếu tố nguy cơ liên quan đến sót bướu sau cắt đốt nội soi bướu bàng 
quang chưa xâm lấn cơ. 
Đối  tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt các trường hợp lâm sàng. Tiêu chuẩn 
chọn bệnh: các trường hợp bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ (Ta,T1) được chẩn đoán qua cắt đốt nội soi lần 
đầu tại BV Bình Dân trong thời gian từ 01/2012 đến tháng 08/2013. Tiêu chuẩn loại trừ: các trường hợp không 
hợp tác, chảy máu nhiều, có rối loạn đông máu kèm theo. Hẹn CĐNS lại trong vòng 4‐6 tuần. Theo dõi: ghi nhận 
các yếu tố như: kích thước, số lượng, vị trí bướu, dạng đại thể, giai đoạn T, độ biệt hóa, có hay không có lớp cơ 
trong mẫu bệnh phẩm, thời gian cắt đối nội soi lần đầu và khoảng thời gian giữa 2 lần nội soi. Phân tích xem 
những yếu tố nào liên hệ đến sự kiện sót bướu sau cắt đốt lần đầu. 
Kết quả và bàn luận: có 36 trường hợp (TH) gồm 30 nam và 6 nữ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, được đưa 
vào nghiên cứu. Có 8 TH sót bướu (22,2%), gồm 6/30 TH (20%) ở bệnh nhân nam và 2/6 (33,3%) ở bệnh nhân 
nữ.. Trong 8 TH sót bướu, có 1 TH Ta và 7 TH T1. Có 5 TH chẩn đoán lại giai đoạn (13,8%), trong đó 1 TH Ta 
chuyển thành T1 và 4 TH T1 chuyển thành T2. Các yếu tố: vị trí, kích thước, và dạng đại thể của bướu không 
liên quan đến sót bướu. Các yếu tố liên quan đến sót bướu là: số lượng bướu (≥ 2 bướu), giai đoạn T1, độ biệt 
hóa mô học kém (G3) và không có lớp cơ trong mẫu mô CĐNS lần đầu. 
Kết luận: Phẫu thuật viên nên tiến hành cắt đốt nội soi lại sớm, đặc biệt là khi có các yếu tố nguy cơ liên 
quan đến sót bướu như: số lượng từ 2 bướu trở lên, giai đoạn T1, độ biệt hóa kém và không có cơ trong mẫu 
bệnh phẩm cắt đốt nội soi.. 
Từ khóa: bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ, sót bướu, yếu tố nguy cơ 
ABSTRACT 
ASSESSMENT RESIDUAL TUMORS AFTER TRANSURETHRAL ENDOSCOPIC RESECTION  
OF NON‐MUSCLE INVASIVE BLADDER TUMORS 
Phan Duc Huu, Dao Quang Oanh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 39 ‐ 44 
Introduction:  Significant  percentage  of  residual  tumors  has  been  revealed  after  transurethral  resection 
(TUR) of non‐muscle invasive bladder tumors (BT). Moreover, there are 4‐25% misdiagnosed cases after the first 
TUR‐BT. This suggests that the second endoscopic look or reTUR‐BT has to be performed soon.. 
Objectives:  Determine  the  percentage  of  residual  tumors  and  evaluate  related  factors  based  on  early 
* BV Củ Chi  ** Bệnh Viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: Ths.Bs Phan Đức Hữu  ĐT: 01664724116  Email: 
[email protected]  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 40
endoscopic revision after TUR of non‐muscle invasive bladder tumors. 
Patients  –  Methods:  Descriptive,  serial  clinical  cases,  cross‐sectional  study.  All  cases  of  non‐muscle 
invasive bladder tumors realized at Urology Department, Binh Dan Hospital during the period from 01/2012 to 
08/2013,  and  submitted  to  early  endoscopic  revision  in  4‐6  weeks  after  the  first  TUR‐BT  were  included. 
Recognition of factors such as: size, number, location, macroscopic apperance of tumors, T stage, grade, whether 
or not  the presence of mucle  in  the pathologic specimen, duration‐time of  the  first TUR‐BT and  time  interval 
between the two endoscopic managements. Analyse to find related risk factors of residual tumors.  
Results: Totally 36 cases, including 30 men and 6 women. In 8 cases (1 Ta and 7 T1) of residual tumors 
(22.2%), there are 6/30 (20%) cases in male and 2/6 (33.3%) cases in female patients. There are 5 re‐staged cases 
(13.8%), in which 1 case Ta to T1 and 4 cases T1 to T2. Factors: location, size, and macroscopic appearance are 
not risk factors of residual tumors. Risk factors are: number of tumors (≥2), T1 stage, poorly differentiated grade 
(G3) and the absence of muscle in the pathologic specimen. 
Conclusions: The surgeon should proceed with early reTUR‐BT, especially when there are risk  factors of 
residual tumors. 
Keywords: non‐muscle invasive bladder tumor, residual tumor, risk factors 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư bàng quang chưa xâm lấn cơ được 
điều  trị bằng cắt đốt nội soi kết hợp hóa  trị  tại 
chỗ có tỉ lệ đáng kể còn sót bướu. Hơn nữa, có từ 
4‐25% chẩn đoán sai giai đoạn ở cắt đốt nội soi 
lần đầu, được chẩn đoán xác định khi cắt đốt lại 
sớm, điều này nói  lên  rằng cắt đốt nội soi duy 
nhất 1 lần trong điều trị bướu bàng quang chưa 
xâm lấn cơ là chưa đủ, đòi hỏi cần phải cắt đốt 
nội soi  lại sớm(1). Mục đích của cắt đốt  lại sớm 
ngoài việc đánh giá tỉ lệ sót bướu còn có nhiều ý 
nghĩa như làm sạch bướu còn sót, chẩn đoán lại 
giai  đoạn  và  độ  biệt  hóa  của  bướu,  cung  cấp 
thông tin quan trọng tiên lượng cho sự tái phát 
hoặc tiến triển giai đoạn, đồng thời dẫn đến thay 
đổi trong điều trị để đạt hiệu quả tốt hơn. 
Vấn đề được đặt ra là cần phải xác định tỉ lệ 
sót bướu một cách hiệu quả bằng phương pháp 
cắt đốt nội soi lại sớm trong khoảng thời gian 4‐6 
tuần, làm sạch bướu tốt hơn và đánh giá các yếu 
tố liên quan đến sót bướu. 
Mục tiêu 
Nhằm mục đích điều trị bướu bàng quang 
chưa  xâm  lấn  cơ một  cách  hiệu  quả,  cải  thiện 
tiên  lượng cho bệnh nhân, chúng  tôi  thực hiện 
nghiên cứu đề tài”đánh giá tỉ lệ sót bướu trong 
cắt đốt nội soi bướu bàng quang chưa xâm  lấn 
cơ” với các mục tiêu sau: 
 Xác  định  tỉ  lệ  sót bướu  trong  cắt  đốt nội  soi 
bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ bằng phương 
pháp cắt đốt nội soi lại sớm. 
 Xác  định  các  yếu  tố  liên  quan  đến  sót  bướu 
trong cắt đốt nội soi bướu bàng quang chưa xâm 
lấn cơ. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt các trường hợp 
lâm sàng. Thực hiện tại BV Bình Dân trong thời 
gian từ 01/2012 đến tháng 08/2013. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các  trường  hợp  bướu  bàng  quang  chưa 
xâm lấn cơ (Ta,T1) được chẩn đoán qua cắt đốt 
nội soi lần đầu. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Hẹn cắt đốt lại 4 – 6 tuần sau. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có rối loạn đông máu kèm theo. 
Trường hợp bị  tai biến,  biến  chứng  trong 
quá trình cắt đốt nội soi như: chảy máu nhiều, 
thủng bàng quang. 
Các yếu tố ghi nhận 
Kích  thước,  Số  lượng,  Vị  trí  bướu, Dạng 
đại thể, Giai đoạn T, Độ biệt hóa, lớp cơ trong 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  41
mẫu cắt đốt nội soi. 
Xử lí số liệu 
Xử  lí  và phân  tích  số  liệu  theo phần mềm 
thống kê SPSS.16 for Window. Xác định xem các 
yếu tố nào liên quan đến”sót bướu” sau cắt đốt 
nội soi lần đầu. 
KẾT QUẢ 
Số liệu chung  
Trong  thời  gian  từ  01/2012  đến  tháng 
08/2013,  có 36  trường hợp  (30 nam, 6 nữ)  thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu, được đưa vào nghiên cứu. 
Có 6/30 TH ở bệnh nhân nam bị sót bướu chiếm 
tỉ lệ 20% và 2/6 bệnh nhân nữ bị sót bướu chiếm 
tỉ lệ 33,3%. 
Kết quả cắt đốt nội soi lại sớm 
Có 8 TH sót bướu (22,2%), trong đó 1 TH Ta 
và  7 TH T1. Có  5 TH  chẩn  đoán  lại giai  đoạn 
(13,8%), trong đó 1 TH Ta chuyển thành T1 và 4 
TH T1 chuyển thành T2. 
Bảng 1: Kết quả cắt đốt nội soi lại sớm 
Bướu Số lượng Giai đoạn T sau CĐNS lại sớm Số TH (%) Sót bướu (%) Tăng giai đoạn (%) 
To Ta T1 T2 
Ta 16 15 (93,8) 0 1 (6,2) 0 1 (6,2) 1 (6,2) 
T1 20 13 (65) 0 3 (15) 4 (20) 7 (35) 4 (20) 
Tổng 36 (100%) 28 (77,7) 0 4 (11,1) 4 (11,1) 8 (22,2) 5 (13,8%) 
Đặc điểm của bướu trong nghiên cứu 
Vị trí bướu 
Vị  trí bướu  ở  thành  sau và  thành  sau kèm 
với vị trí khác chiếm tỉ lệ cao. Nhưng, ngược lại, 
tỉ lệ sót bướu ở vị trí thành trước lại cao nhất ( 8 
TH=22,2%). 
Dạng đại thể 
Dạng đại thể xâm lấn chiếm tỉ lệ cao hơn các 
trường  hợp  dạng  nhú.  Dạng  xâm  lấn  có  21 
trường  hợp  (58,4%),  dạng  nhú  15  trường  hợp 
(41,6%). 
Kích thước của bướu 
Bướu  có  kích  thước  ≥  3cm  chiếm  tỉ  lệ  cao, 
trên  50%  số  trường  hợp.  Bướu  ≥  3cm  có  22 
trường hợp  (61,1%),  bướu  ≤  3cm  có  14  trường 
hợp (40,9%). 
Số lượng bướu 
Số  trường  hợp  tỉ  lệ  nghịch  theo  số  lượng 
bướu. Số TH có 1 bướu chiếm tỉ lệ cao, trong khi 
đó số TH có 5 bướu chiếm tỉ lệ thấp nhất. Số TH 
≥ 2 bướu  có 21  trường hợp  (58,4%),  số TH  ≤ 2 
bướu có 15 trường hợp (41,6%). 
Giai đoạn T của bướu 
Giai  đoạn T1  chiếm  tỉ  lệ hơi nhỉnh hơn Ta 
(55,6%).  Bướu  giai  đoạn  Ta  có  16  trường  hợp 
(44,4%), T1 có 20 trường hợp (55,6%). 
Độ biệt hóa của bướu 
Độ  biệt  hóa  trung  bình  chiếm  tỉ  lệ  >  70%, 
trong  khi  đó  độ  biệt  kém  chiếm  tỉ  lệ  chưa  tới 
20%, độ biệt hóa tốt chiếm tỉ lệ thấp nhất 5,5%. 
Có cơ bàng quang trong mẫu giải phẫu bệnh 
Có cơ trong mẫu cắt đốt nội soi có 30 trường 
hợp  chiếm  tỉ  lệ  cao  (83,3%),  không  có  cơ  có  6 
trường hợp (16,7%). 
Đánh giá yếu tố liên quan và sự sót bướu. 
Bảng 2: Các yếu tố liên quan và sự sót bướu 
Yếu tố Sót bướu(+) P 
 Không Có 
Vị trí Thành trước 6 (75%) 2 (25%) 1,000 
Phần còn lại 22 (78,6%) 6 (21,4%) 
Kích 
thước 
≥ 3cm 15 (68,2%) 7 (31,8%) 0,115 
< 3cm 13 (92,9%) 1 (7,1%) 
SL 
bướu 
1 bướu 16 (94,1%) 1 (5,9%) 0,040 
≥ 2 bướu 12 (63,2%) 7 (36,8%) 
Dạng đại thể: Nhú 14 (93,3%) 1 (6,7%) 0,104 
Xâm lấn 14 (66,7%) 7 (33,3%) 
Giai 
đoạn T
Ta 15 (93,7%) 1 (6,25%) 0,046 
T1 13 (65%) 7 (35%) 
Độ biệt 
hóa 
tốt-vừa 26 (89,7%) 3 (10,3%) 0,03 
kém 2 (28,6%) 5 (71,4%) 
Lớp cơ 
BQ 
 Có 26 (86,7%) 4 (13,3%) 0,014 
Không 2 (33,3%) 4 (66,7%) 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 42
Áp dụng phép kiểm Fisher  (p < 0,05)  thấy 
rằng số  lượng, giai  đoạn,  độ biệt hóa mô học 
của bướu và không  cơ  trong mẫu  cắt  đốt nội 
soi  là  yếu  tố  nguy  cơ  đối  với  sự  sót  bướu. 
Trong khi đó, vị trí, kích thước và dạng đại thể 
không phải  là  yếu  tố  nguy  cơ  đối  với  sự  sót 
bướu.  
BÀN LUẬN 
Về kết quả sót bướu chung 
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
22.20% 25%
36.40% 44%
52%
76%
Biểu đồ 1. So sánh tỉ lệ sót bướu với các tác giả khác. 
Nghiên  cứu này  có 8  trường hợp  sót bướu 
chiếm tỉ lệ là 22,2% (8/36). 
Kết quả  thấp hơn  các  tác giả khác  trên  thế 
giới, dao  động  trong  khoảng  25  –  80%(14,13,9,15,8). 
Có thể giải thích rằng trong nghiên cứu này, các 
trường hợp cắt đốt lại là có chọn lọc, có sự chú ý 
cẩn  thận  ở  lần cắt đốt đầu, nên hạn chế  tối  đa 
yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lên tỉ lệ sót bướu. 
Về các yếu tố liên quan đến sót bướu 
Vì giới hạn trong khuôn khổ bài này, chúng 
tôi chỉ bàn đến các yếu tố có liên quan đến việc 
sót bướu sau cắt đốt lần đầu. 
Số lượng bướu 
Bảng 3. So sánh tỉ lệ sót bướu phân bố theo số lượng 
bướu với các tác giả khác. 
Tác giả Số TH Sót bướu 
chung (%) 
Sót bướu (%)
≥ 2 
bướu
< 2 
bướu
Schips (2002) (13) 110 35% 43% 29% 
Jahnson (2005) (9) 129 44% 61% 31% 
Divrik (2006) (4) 80 33,8% 81,2% 18,8%
Schulze (2007) (14) 251 25% 38% 18% 
Nghiên cứu này 
(2013) 
32 22,2% 36,8% 5,9% 
Số  lượng bướu  là một  trong nhiều yếu  tố 
liên quan đến sự sót bướu. Nguy cơ sót bướu 
của  trường hợp có 1 bướu  là 5,9% sẽ  tăng  lên 
36,8%  gấp  6  lần  nếu  trường  hợp  đó  có  từ  2 
bướu trở lên.  
Theo một số tác giả Châu Âu như Schulze 
và cộng sự phân  tích hồi cứu các  trường hợp 
có cắt đốt lại sớm, trong đó đặc điểm số lượng 
bướu theo tác giả là yếu tố liên quan đối với sự 
sót  bướu(13).  Jahnson  cũng  cho  rằng  nhiều 
bướu (≥ 2 bướu) sẽ làm tăng nguy cơ sót bướu 
hơn là đơn bướu(9). 
Schwaibold nghiên  cứu  cắt  đốt nội  soi  lại 
sớm 136 trường hợp cũng có kết luận số lượng 
bướu  càng  nhiều  thì  càng  tăng  nguy  cơ  sót 
bướu,  nhiều  bướu  (≥2  bướu)  là  yếu  tố  liên 
quan đến sót bướu, chứ không phải là độ biệt 
hóa hay đường kính là yếu tố liên quan đối với 
sót  bướu(15). Brausi  và  cộng  sự  báo  cáo  trong 
nghiên cứu của Hiệp hội điều trị ung thư Châu 
Âu tỉ lệ sót bướu là 7% đối với 1 bướu sẽ tăng 
lên 27‐40% đối với  từ 2 bướu  trở  lên(3). Divrik 
và  cộng  sự  có  báo  cáo  tỉ  lệ  sót  bướu  ở  bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  43
nhân nhóm  từ 2 bướu  trở  lên  là 81,2%  so với 
nhóm đơn bướu là 18,8%(4). 
Giai đoạn T 
Bảng 4. So sánh tỉ lệ sót bướu phân bố theo Ta,T1 
với các tác giả khác. 
Tác giả Số TH Sót bướu 
(%) 
Sót bướu 
Ta T1 
Engelhardt 
(1998)(5) 
75 32% 22% 52% 
Grimm (2003)(6) 124 33% 27,1% 52,6% 
Schulze (2007)(14) 251 25% 15% 47% 
Nghiên cứu này 
(2013) 
36 22,2% 6,25% 35% 
Nghiên  cứu này  cho  thấy  tỉ  lệ  sót bướu  sẽ 
tăng theo giai đoạn. T1 có sót bướu tăng gần gấp 
6  lần  so với  các  trường hợp Ta: Ta  có  tỉ  lệ  sót 
bướu 6,25% sẽ tăng lên 35% đối với bướu T1.  
Theo các nghiên cứu của các tác giả Châu Âu 
như Schulze và cộng  sự báo cáo  tỉ  lệ  sót bướu 
của Ta là 15% sẽ tăng gấp 3 lần lên 47% đối với 
T1(14).  Vogeli  và  cộng  sự  năm  2002  tại  Đức 
nghiên  cứu  192  trường  hợp  bướu  bàng  quang 
trong đó bướu bàng quang chưa xâm  lấn cơ có 
124 trường hợp và 83 trường hợp cắt đốt lại sớm 
với tỉ lệ sót bướu trong các trường hợp Ta là 27% 
và trong các trường hợp T1 là 53%(16). Các trường 
hợp bướu Ta có tỉ lệ sót bướu là rất thấp, việc Ta 
không là yếu tố nguy cơ đã được nhiều nghiên 
cứu khẳng  định, do  đó việc  cắt  đốt  lại  sớm  là 
không  cần  thiết, như  là TaG1, TaG2.  Điều này 
được nói nhiều trong nghiên cứu của Schulze và 
cộng sự(14). 
Độ biệt hóa mô học 
Bảng 5. So sánh tỉ lệ sót bướu phân bố theo độ biệt 
hóa với các tác giả khác. 
Tác giả Số TH Sót bướu 
(%) 
Sót bướu 
G 1 G 2 G 3 
Englhart (1998)(5) 75 32% 0% 23,1%76,9%
Jahnson (2005)(9) 129 44% 0% 26% 74%
Divrik (2006)(4) 80 33,8% 5,8% 38,2%62,5%
Schulze (2007)(14) 251 25% 6% 21% 42%
Han (2008)(7) 56 66,7% 0% 40% 80%
Nghiên cứu này 
(2013) 
36 22,2% 0% 10,3%71,4%
Kết  quả  của  nghiên  cứu  cho  thấy  khi  độ 
biệt hóa càng kém tỉ lệ sót bướu càng cao. Tỉ lệ 
sót bướu  theo độ biệt hóa  lần  lượt  là G1: 0%, 
G2: 10,3%, G3: 71,4%.  
Theo hướng dẫn của hội niệu khoa Châu Âu 
thì  độ  biệt  hóa  kém  được  xem  như  là  yếu  tố 
nguy  cơ  đối  với  sự  sót  bướu,  tái  phát  và  tiến 
triển,  từ đó  đưa  ra khuyến  cáo nên  cắt  đốt  lại 
sớm các trường hợp bướu chưa xâm lấn cơ biệt 
hóa kém(1). 
Kolozsy năm 1991  tiến hành nghiên cứu về 
các mẫu giải phẫu bệnh ở những bệnh nhân sau 
khi đã cắt đốt nội soi bằng nhiều kỹ thuật khác 
nhau có tỉ lệ sót bướu là 35%. Trong đó tỉ lệ sót 
bướu  tăng  lên  trong nhóm giai  đoạn T1 và  độ 
biệt  hóa  kém.  Theo  tác  giả  không  phải  do  kỹ 
thuật  cắt  đốt nội  soi mà  là yếu  tố bệnh học,  ở 
đây xét về mặt mô học thì độ biệt hóa kém là 1 
yếu tố nguy cơ  liên quan đến khả năng cắt đốt 
nội  soi  không  hết  dẫn  đến  sót  bướu(10). Divrik 
năm 2006 tại Thổ Nhĩ Kỳ nghiên cứu 80 trường 
hợp  cắt  đốt  nội  soi  lại  sớm  tỉ  lệ  sót  bướu  là 
33,8%,  tỉ  lệ  sót bướu  theo  độ biệt hóa  lần  lượt 
như  sau:  độ  biệt hóa  tốt‐biệt hóa  vừa‐biệt hóa 
kém  là 5,8%‐38,2%‐62,5%. Nguy cơ sót bướu có 
liên quan đến độ biệt hóa kém (p = 0,009)(4).  
Schulze cũng cho rằng độ biệt hóa càng kém 
tỉ lệ sót bướu càng cao(14).Han và cộng sự nghiên 
cứu mối  liên hệ độ biệt hóa và sự sót bướu, đi 
đến kết luận: trong các trường hợp Ta có độ biệt 
hóa tốt, vừa và kém khác nhau không có ý nghĩa 
thống kê, trong trường hợp T1 thì khác nhau có 
ý nghĩa  thống kê giữa  độ biệt hóa kém với  độ 
biệt  hóa  tốt  ‐  trung  bình. Hay  nói  cách  khác, 
trong các  trường hợp T1,  độ biệt hóa kém  là 1 
yếu tố liên quan đối với sót bướu(7). 
Thiếu lớp cơ trong mẫu cắt đốt nội soi lần đầu  
Bảng 6. So sánh tỉ lệ thiếu cơ bàng quang với các tác 
giả khác. 
Tác giả Số TH Sót bướu 
(%) 
Thiếu cơ 
bàng quang
Han (2008)(7) 56 66,7% 69,6% 
Shen (2009)(12) 125 34,4% 24% 
Badalato (2010)(2) 114 56% 20,2% 
Mariappan (2012)(11) 473 44,7% 18,8% 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 44
Tác giả Số TH Sót bướu 
(%) 
Thiếu cơ 
bàng quang
Nghiên cứu này (2013) 36 22,2% 16,7% 
Trong nghiên cứu này  thì  tỉ  lệ không có cơ 
trong mẫu CĐNS so với có cơ là 6:1. Nguy cơ sót 
bướu khi không có cơ trong mẫu CĐNS tăng lên 
gần  6  lần  so  với  các  trường  hợp  có  cơ. Với  6 
trường hợp không có cơ trong mẫu cắt đốt, có 4 
trường hợp còn sót bướu  tỉ  lệ  là 66,7%. Với 30 
trường hợp có cơ trong mẫu cắt đốt, có 4 trường 
hợp  sót  bướu  (13,3%).  Sự  hiện  diên  cơ  bàng 
quang  trong mẫu mô bướu  lấy  từ CĐNS đóng 
vai  trò quan  trọng để chẩn đoán chính xác giai 
đoạn của bướu và nói lên chất lượng của CĐNS.  
Theo hội niệu  khoa Châu Âu  không  có  cơ 
trong mẫu  bệnh  phẩm  sẽ  góp  phần  tăng  tình 
trạng CĐNS không hết, vì vậy nó là yếu tố nguy 
cơ  đối  với  sự  sót  bướu,  có  chỉ  định CĐNS  lại 
sớm(1). Tác giả Shen nghiên cứu trên 125 trường 
hợp CĐNS lại sớm, có 30 trường hợp không có 
cơ trong mẫu CĐNS, thấy rằng có sự khác nhau 
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có cơ trong mẫu 
CĐNS và không có cơ đối với tỉ lệ sót bướu (p < 
0,05). Thiếu cơ  trong mẫu CĐNS  là yếu  tố  liên 
quan đến sự sót bướu(12). 
Các  nghiên  cứu  khác  có  kết  quả  tương 
tự(7,2,11,16). 
KẾT LUẬN 
Tỉ  lệ sót bướu  trong điều  trị cắt đốt nội soi 
bướu bàng quang  chưa  xâm  lấn  cơ  là khá  cao 
22,2%. Do đó, chúng tôi đề nghị các phẫu thuật 
viên nên  tiến hành cắt đốt nội  soi  lại  sớm,  đặc 
biệt là các trường hợp có các yếu tố nguy cơ liên 
quan đến sót bướu như: số lượng từ 2 bướu trở 
lên, giai đoạn T1, độ biệt hóa kém và không có 
cơ trong mẫu bệnh phẩm cắt đốt nội soi 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Babjuk M, Burger M, Zigeuner R, et al (2013), Guidelines on 
non‐muscle invasive (Tcis, Ta, T1) bladder cancer, Eur Urol 59 
(4): 584‐594. 
2 Badalato G, Patel T, Hruby G, et al (2011), Does the presence 
of muscularis propria  on  transurethral  resection  of  bladder 
tumour specimens affect the rate of upstaging in cT1 bladder 
cancer?, BJU Int 108 (8): 1292‐1296. 
3 Brausi M, Collette L, Kurth K, et al (2002), Variability  in  the 
recurrence  rate  at  first  follow‐up  cystoscopy  after  TUR  in 
stage  Ta  T1  transitional  cell  carcinoma  of  the  bladder:  a 
combined analysis of seven EORTC studies, Eur Urol 41: 523‐
531 
4 Divrik RT, Yildirim U, Eroglu AS,  et  al  (2006),  Is  a  second 
transurethral  resection  necessary  for  newly  diagnosed  pT1 
bladder cancer?, J Urol 175 (4):.1258‐1261. 
5 Engelhardt P, Riedl C, Pflu H, et al  (1998),  Is a second  look 
tur‐b in patients with superficial bladder cancer necessary?, J 
Endourol 12 (2): 164‐168. 
6 Grimm  MO,  Steinhoff  C,  Simon  X,  et  al  (2003),  Effect  of 
routine repeat  transurethral resection  for superficial bladder 
cancer: a  long‐term observational  study,  J Urol 170  (2 Pt 1): 
433‐437 
7 Han KS,  Joung  JY, Cho KS, et al  (2008), Results of  repeated 
transurethral  resection  for  a  second  opinion  in  patients 
referred  for nonmuscle  invasive bladder  cancer:  the  referral 
cancer  center  experience  and  review  of  the  literature,  J 
Endourol 22 (12): 2699‐2704. 
8 Herr HW (2011),”Role of re‐resection in non‐muscle‐invasive 
bladder cancerʺ, Scientific World Journal 11: 283‐288. 
9 Jahnson  S, Wiklund  F,  Duchek M,  et  al  (2005),  Results  of 
second‐look resection after primary resection of T1 tumour of 
the urinary bladder, Scand J Urol Nephrol 39 (3): 206‐210. 
10 Koloszy  Z  (1991),  Histopathological”self  control”  in 
transurethral resection of bladder  tumors, Br J Urol 67: 162–
164. 
11 Mariappan P, Finney SM, Head E, et al (2012), Good quality 
white‐light  transurethral  resection of bladder  tumours  (GQ‐
WLTURBT) with experienced surgeons performing complete 
resections  and  obtaining  detrusor  muscle  reduces  early 
recurrence  in  new  non‐muscle‐invasive  bladder  cancer: 
validation  across  time  and  place  and  recommendation  for 
benchmarking, BJU Int 109 (11): 1666‐1673. 
12 Shen YJ, Ye DW, Yao XD, et al  (2009), Repeat  transurethral 
resection for non‐muscle invasive bladder cancer, Urology 47 
(10): 725‐727. 
13 Schips L, Augustin H, Zigeuner RE, et al  (2002),  Is repeated 
transurethral  resection  justified  in  patients  with  newly 
diagnosed superficial bladder cancer?, Urology 59 (2): 220‐223. 
14 Schulze M,  Stotz N  and  Rassweiler  J  (2007),  Retrospective 
analysis of transurethral resection, second‐look resection, and 
long‐term chemo‐metaphylaxis for superficial bladder cancer: 
indications  and  efficacy  of  a  differentiated  approach,  J 
Endourol 21 (12): 1533‐1541. 
15 Schwaibold HE, Sivalingam S, May F, et al (2006), The value 
of a second transurethral resection for T1 bladder cancer, BJU 
Int 97 (6): 1199‐1201. 
16 Vogeli  TA, Grimm MO,  Simon X,  et  al  (2002),  Prospective 
study  of  effectiveness.  Reoperation  (re‐TUR)  in  superficial 
bladder carcinoma, Urologe A, 41 (5): 470‐474. 
Ngày nhận bài báo: 15/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014