Cần dùng thuốc đểcắt đứt cơn migraine khi đau đầu mức độtrung bình hay 
nặng. Các loại thuốc này khác với những thuốc giảm đau thường dùng nêu ởtrên. 
Thay vì làm giảm cơn đau những loại thuốc này có tác dụng chống lại nguyên nhân 
gây đau đầu, và còn có thểlàm co động mạch thái dương. Hai loại thuốc thường dùng 
là triptan và ergot 
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Đau đầu (Phần 3), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đau đầu 
(Phần 3)
Ðiều trị chứng đau nửa đầu từ vừa đến nặng như thế nào ? 
Cần dùng thuốc để cắt đứt cơn migraine khi đau đầu mức độ trung bình hay 
nặng. Các loại thuốc này khác với những thuốc giảm đau thường dùng nêu ở trên. 
Thay vì làm giảm cơn đau những loại thuốc này có tác dụng chống lại nguyên nhân 
gây đau đầu, và còn có thể làm co động mạch thái dương. Hai loại thuốc thường dùng 
là triptan và ergot 
Triptan là gì ? 
Triptan có khả năng gắn vào các thụ thể của serotonin trên thành mạch và các 
sợi thần kinh vì vậy nó làm giảm quá trình viêm cũng như làm co mạch. Ðiều này làm 
chấm dứt cơn đau đầu. Loại thuốc thuộc nhóm triptan thế hệ đầu tiên là sumatriptan 
(Imitrex). Ở Mỹ, thuốc này được dùng bằng đường tiêm, uống, hay dùng dạng xịt qua 
mũi. Zolmitriptan (Zomig)và rizatriptan (Maxalt) là hai loại thuốc mới hơn có thể 
dùng bằng đường uống hay thuốc ngậm tan trong miệng. Naratriptan (Amerge) , 
almotriptan (Axert), frovatriptan (Frovalan) thì chỉ dùng để uống mà thôi. 
Theo nguyên tắc, nhóm thuốc này chỉ được kê đơn khi các loại thuốc giảm đau 
thông thường không có hiệu quả. Nhưng những nghiên cứu gần đây thì cho rằng có thể 
dùng triptan ngay từ ban đầu để trị chứng đau nửa đầu này nhất là khi nó làm bệnh 
nhân suy nhược. 
Triptan nên dùng trước khi cơn đau đầu xuất hiện hoặc khi cơn đau đang còn 
nhẹ. Việc dùng thuốc sớm giúp tăng hiệu quả của thuốc, giảm tác dụng phụ, giảm 
nguy cơ tái phát cơn đau trong vòng 24 giờ sau. Dùng thuốc sớm ,tripan có thể làm 
mất đi hơn 80% cơn đau trong vòng 2 giờ. 
 Tác dụng phụ của triptan là gì ? 
Các tác dụng phụ thường gặp của triptan là : đỏ bừng mặt, gây cảm giác ngứa 
da, cảm giác nghẹn cổ, nặng ngực. Ngoài ra, thuốc còn làm bệnh nhân lơ mơ nửa tỉnh 
nửa mê, choáng váng, mệt mỏi. Tuy nhiên đó chỉ là những tác dụng phụ trong thời 
gian ngắn, không đáng ngại lắm. 
Tác dụng phụ nguy hiểm nhất là gây nhồi máu cơ tim và làm bệnh nhân bị đột 
quỵ khi thuyên tắc mạch máu tim hoặc não. Dù tác dụng điều trị của triptan là làm co 
các động mạch vùng đầu, nhưng nó cũng có thể gây co thắt mạch vành vì vậy có thể 
gây nhồi máu cơ tim, nhất là ở những bệnh nhân có bị xơ vữa động mạch, lòng mạch 
bị thu hẹp lại do lắng đọng các mảng xơ vữa, hoặc bệnh nhân hay có những cơn co 
thắt mạch vành gây đau ngực trước đây (còn được gọi là chứng đau ngực biến thái 
Prizmetal). Vì vậy triptan không chỉ định cho những bệnh nhân đã từng bị nhồi máu cơ 
tim, đột quỵ, hay bệnh nhân có dấu hệu của bệnh xơ vữa động mạch (dấu hiệu của xơ 
vữa động mạch có thể là đau ngực, dấu hiệu thiếu máu cơ tim thoáng qua hay dấu hiệu 
đi lặc cách hồi do tình trạng cung cấp máu cho chi dưới không liên tục vì lòng mạch bị 
hẹp do mảng xơ vữa). 
Một số bệnh nhân bị xơ vữa động mạch mà không có triệu chứng gì cả, được 
gọi là thể im lặng. Vì vậy, trước khi cho bệnh nhân dùng thuốc cần kiểm tra lại nếu 
bệnh nhân có bất kì dấu hiệu nào thuộc nhóm nguy cơ của bệnh xơ vữa động mạch. 
Các yếu tố nguy cơ đó là hút thuốc, tiểu đường, cao huyết áp, tăng lipoprotein có tỉ 
trọng thấp (LDL- một loại lipoprotein có hại vì nó làm tăng luợng cholesterone trong 
máu), béo phì, nam giới trên 40 tuổi, phụ nữ mãn kinh, hoặc có người thân trong gia 
đình từng bị nhồi máu cơ tim khi còn trẻ. Những đối tượng nguy cơ này nếu phải dùng 
thuốc thì ngay lần dùng đầu tiên cần theo dõi điện tim liên tục. 
Triptan khi dùng có thể tương tác với một số thuốc. Ví dụ khi dùng chung với 
các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin (SSRIs - thuộc nhóm thuốc điều trị trầm cảm), 
vài báo cáo cho thấy có thể xảy ra hội chứng serotonin. Hội chứng này gồm :nhầm 
lẫm, hay quên, sốt, rung cơ, tăng huyết áp, tiêu chảy, đổ mồ hôi. Vài loại thuốc trong 
nhóm này như sumatriptan, zolmitriptan và rizatriptan có thể tương tác với nhóm 
thuốc ức chế men monoamine oxidase. Hay như propanolol có thể làm tăng nồng độ 
rizatriptan trong máu, cimetidine (Tagamet) lại làm tăng nồng độ zolmitriptan. 
Triptan không nên dùng cho phụ nữ có thai và trẻ nhỏ. 
Ergot là gì ? 
Cũng có tác dụng đẩy lùi cơn đau đầu migraine, trong thành phần có chứa 
ergotamine (Ergomar, Wigraine, Cafergot) và dihydroergotamine (Migranal,Tamik, 
DHE - 45). Ergot cũng có tác dụng làm co mạch nhưng ái lực của thuốc với tim nhiều 
hơn triptan, vì vậy tác dụng trên tim của thuốc kéo dài hơn, và việc dùng thuốc không 
an toàn bằng triptan. Ergot cũng gây buồn nôn và nôn nhiều hơn triptan, nó còn gây 
tăng co cơ trơn tử cung, vì vậy ở phụ nữ có thai nếu dùng thuốc có thể bị sảy thai hay 
sanh non. 
Midrin là gì ? 
Cũng là thuốc điều trị đau đầu do căng thẳng và chứng đau nửa đầu migraine, 
dùng kết hợp với isometheptene (thuốc gây co mạch), acetaminophen (thuốc giảm 
đau) và dichloralphedazone (thuốc an thần). Nên dùng trước cơn đau để có tác dụng 
tốt. Không nên dùng cho bệnh nhân bị tăng huyết áp, suy thận, tăng nhãn áp, bệnh 
gan, xơ vữa động mạch. Không dùng cùng với nhóm thuốc ức chế men monoamine 
oxidase. 
Có loại thuốc nào khác để trị đau nữa đầu hay không ? 
Narcotic và thuốc có chứa butalbital đôi khi cũng được dùng để điều trị chứng 
đau nửa đầu. Tuy nhiên những thuốc này có khả năng gây nghiện, vì vậy không nên 
dùng ngay từ ban đầu. Thuốc có thể chỉ định cho những bệnh nhân điều trị không hiệu 
quả với các thuốc giảm đau thông thường nhưng lại không sử dụng được triptan (do 
đang mang thai hay có bệnh tim mạch kèm theo). 
Ðối với bệnh nhân dễ nôn, nên dùng kèm với một loại thuốc chống nôn khác 
như prochlorperazine (Compazine), hoặc metoclopramide (Reglan). Nếu bệnh nhân 
nôn nhiều khiến thuốc không thể hấp thu bằng đường uống thì có thể dùng DHE - 45, 
prochlorperazide (Compazine), valproate (Depacon). 
Phòng ngừa chứng đau nửa đầu bằng cách nào ? 
Có hai cách để phòng ngừa chứng đau nửa đầu : 
1. Tránh các yếu tố khởi phát cơn đau 
2. Dùng thuốc phòng tránh 
Thực sự không có cách nào có thể tránh 100%, mà áp dụng các biện pháp này 
chỉ có thể làm giảm số cơn đau. 
Các yếu tố khởi phát cơn đau nửa đầu là gì ? 
Chỉ một số ít những bệnh nhân bị chứng đau nửa đầu là tìm được nguyên nhân 
khởi phát cơn đau rõ ràng, còn đa phần không xác định được. 
Những bệnh nhân này có thể xuất hiện cơn đau nếu trước đó họ có một trong 
các yếu tố sau : stress, rối loạn giấc ngủ, ăn kiêng, hormone, khi bị chói mắt, do một 
số mùi nào đó, khói thuốc lá, hay do dùng một số thức ăn như pho mai cũ, sôcôla, bột 
ngọt, các chất nitrite, aspartame, cà phê. Ở một số phụ nữ, trong chu kỳ kinh nguyệt, 
khi nồng độ estrogen trong máu giảm thấp cũng khởi phát cơn đau đầu. Thời gian từ 
khi tiếp xúc với các yếu tố khởi phát đến khi đau đầu có thể từ vài giờ đến hai ngày. 
Không nhất thiết bệnh nhân "phải" đau đầu cứ mỗi khi tiếp xúc với yếu tố khởi phát, 
ngược lại, không phải là cứ tránh được các yếu tố này là tránh được đau đầu. 
Giấc ngủ và chứng đau nửa đầ 
Các rối loạn trong giấc ngủ như thiếu ngủ, ngủ không ngon giấc, ngủ không 
liên tục thường bị đánh thức trong giấc ngủ hay thậm chí ngủ quá nhiều đều được ghi 
nhận là nguy cơ cho chứng đau nửa đầu và chứng đau đầu do căng thẳng. Tổ chức một 
giấc ngủ hợp lí có thể làm giảm số lần đau đầu, đồng thời giấc ngủ cũng được cho rằng 
nó rút ngắn cơn đau. 
Ăn kiêng và chứng đau nửa đầu 
Ăn kiêng có thể làm khởi phát cơn đau đầu vì ăn kiêng làm phóng thích các 
hormone gây stress và làm hạ đường huyết. 
Ánh sáng và chứng đau nửa đầu 
Ánh sáng quá chói hay bất kì điều gì gây kích thích thị giác đều có thể làm cả 
bệnh nhân lẫn người khoẻ mạnh đau đầu, nhưng bệnh nhân bị chứng bệnh này thì nhạy 
cảm hơn, nghĩa là chỉ cần kích thích với cường độ yếu hơn là có thể gây đau đầu (ví 
như ánh sáng mặt trời, ti vi hay đèn flash). 
Chất caffein và chứng đau nửa đầu 
Chất này có trong nhiều loại thực phẩm như : nước cola, trà, sôcôla, cà phê và 
cả các thuốc giảm đau thông thường. Dùng caffein với hàm lượng thấp có thể giúp tỉnh 
táo và tăng khả năng hoạt động, nhưng nếu dùng quá nhiều thì gây mất ngủ, bứt rứt lo 
lắng và nhức đầu. Ðối với thuốc giảm đau có caffein, lạm dụng nó thì gây chứng nhức 
đầu kháng thuốc. Hơn nữa, ở một số người dùng caffein liều cao thường xuyên, khi 
ngưng dùng đột ngột thì cơn đau có khuynh hướng thuyên giảm. 
Sôcôla, rượu, tyramine, monosodium glutamate (trong bột ngọt), nitrite, 
aspartame và chứng đau nửa đầu. 
· Sôcôla được khuyến cáo có thể gây đau đầu, nhưng chưa có nghiên cứu 
nào chứng minh được rõ ràng mối liên hệ này. 
· Rượu : cả rượu trắng lẫn rượu đỏ. 
· Tyramine (có trong pho mai, rượu, bia, xúc xích nướng, bắp cải muối), dù 
được cho rằng chất này khởi phát cơn đau đầu, nhưng không có bằng chứng chứng 
tỏ rằng nếu hạn chế nó thì làm giảm số cơn đau. 
· Monosodium glutamate gây đau đầu, đỏ mặt, ra mồ hôi, và đánh trống 
ngực, nếu dùng lượng nhiều khi đang đói. 
· Nitrite và nitrate (có nhiều trong xúc xích, giăm bông, thịt hun khói, dồi). 
· Aspartame - một loại chất tạo vị ngọt dùng thay thế cho đường thông 
thường ở thực phẩm dành cho người ăn kiêng. Các chất này đã được chứng minh là 
gây đau đầu nhất là khi dùng nhiều. 
Hornome sinh dục nữ và chứng đau nửa đầu 
Bệnh nhân nữ bị chứng đau nửa đầu thường ghi nhận họ bị nhiều cơn đau đầu 
hơn khi đang hành kinh. Ðặc biệt một số người chỉ đau đầu vào khoảng thời gian này. 
Và loại đau đầu này gọi là đau đầu kinh nguyệt . Người ta cho rằng nồng độ estrogen 
xuống thấp trong chu kì là nguyên nhân của những cơn đau đầu này. Ở phụ nữ dùng 
thuốc tránh thai, do bản thân thuốc là estrogen tổng hợp, nên vào giai đoạn không 
dùng thuốc trong một chu kì, nồng độ estrogen trong máu giảm xuống, và bệnh nhân 
xuất hiện cơn đau đầu. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dau_dau_3_3478.pdf dau_dau_3_3478.pdf