Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế- xã hội nước ta mở đầu từ
Đại hội VI đến nay đã trải qua 20 năm, chúng ta đã có những thay đổi to lớn, 
sâu sắc và đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh 
tế. Trước hết đó là sự đổi mới trong tưduy phát triển, chuyển từnền kinh tế
dựa chủyếu trên kếhoạch hóa tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế
hàng hóa có sựquản lý vĩmô của nhà nước và hiện nay là xây dựng nền kinh 
tếhàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơchếthịtrường. 
Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, đời sống 
nhân dân được nâng cao, hiện nay nền kinh tếViệt Nam đang trên đà phát 
triển theo xu hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là sức cạnh 
tranh của nền kinh tếViệt Nam còn rất thấp. Đểnâng cao hiệu quảkinh 
doanh, tăng cường khảnăng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệthống 
kinh doanh quốc tếvà khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam không có sựlựa 
chọn nào khác là phải nâng cao khảnăng nhận thức lý thuyết và thực hành 
Marketing vào kinh doanh. Đặc biệt là trong cơchếthịtrường hiện nay, 
Marketing hiện đại và quản trịkinh doanh theo triết lý Marketing là một 
phương pháp cốt yếu và phổbiến trong quản trịkinh doanh của các doanh 
nghiệp. Chính vì vậy Marketing có một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ
đối với những doanh nghiệp lớn mà cảvới những doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại. 
Nắm được lý thuyết Marketing doanh nghiệp sẽcó được công cụ
hữu hiệu đểchiễm lĩnh thịtrường với những chiến lược và kếhoạch 
Marketing hợp lý. Tuy nhiên không phải ngay từ đầu Marketing đã phát triển 
thành một lý thuyết hoàn chỉnh và trong thực tiễn hiện nay không phải doanh 
nghiệp nào cũng nhận thức đầy đủvà áp dụng đúng lý thuyết Marketing vào 
quản trịkinh doanh của doanh nghiệp. 
1
Marketing nói chung và Marketing thương mại nói riêng là một nội 
dung rất rộng và khó khăn nhưng nó lại vô cùng hấp dẫn và quan trọng. Do 
đó, em xin phép được tìm hiểu và trình bày đềtài này đểlàm rõ được vai trò 
và tác dụng của Marketing đối với một doanh nghiệp thương mại trong cơchế
thịtrường. 
Vì trình độvà điều kiện có hạn nên đềán của em không thểtránh 
khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sựgiúp đỡvà góp ý của thầy để
đềán được hoàn chỉnh hơn. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 33 trang
33 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề án Marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z 
TRƯỜNG......................... 
KHOA...................... 
 X^	]W 
ĐỀ ÁN 
Marketing trong kinh 
doanh của doanh nghiệp 
Lời mở đầu 
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ 
Đại hội VI đến nay đã trải qua 20 năm, chúng ta đã có những thay đổi to lớn, 
sâu sắc và đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh 
tế. Trước hết đó là sự đổi mới trong tư duy phát triển, chuyển từ nền kinh tế 
dựa chủ yếu trên kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế 
hàng hóa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước và hiện nay là xây dựng nền kinh 
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. 
Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống 
nhân dân được nâng cao, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát 
triển theo xu hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là sức cạnh 
tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp. Để nâng cao hiệu quả kinh 
doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống 
kinh doanh quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam không có sự lựa 
chọn nào khác là phải nâng cao khả năng nhận thức lý thuyết và thực hành 
Marketing vào kinh doanh. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay, 
Marketing hiện đại và quản trị kinh doanh theo triết lý Marketing là một 
phương pháp cốt yếu và phổ biến trong quản trị kinh doanh của các doanh 
nghiệp. Chính vì vậy Marketing có một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ 
đối với những doanh nghiệp lớn mà cả với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại. 
Nắm được lý thuyết Marketing doanh nghiệp sẽ có được công cụ 
hữu hiệu để chiễm lĩnh thị trường với những chiến lược và kế hoạch 
Marketing hợp lý. Tuy nhiên không phải ngay từ đầu Marketing đã phát triển 
thành một lý thuyết hoàn chỉnh và trong thực tiễn hiện nay không phải doanh 
nghiệp nào cũng nhận thức đầy đủ và áp dụng đúng lý thuyết Marketing vào 
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. 
 1
Marketing nói chung và Marketing thương mại nói riêng là một nội 
dung rất rộng và khó khăn nhưng nó lại vô cùng hấp dẫn và quan trọng. Do 
đó, em xin phép được tìm hiểu và trình bày đề tài này để làm rõ được vai trò 
và tác dụng của Marketing đối với một doanh nghiệp thương mại trong cơ chế 
thị trường. 
Vì trình độ và điều kiện có hạn nên đề án của em không thể tránh 
khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của thầy để 
đề án được hoàn chỉnh hơn. 
Em xin chân thành cảm ơn! 
 2
Chương I: Những lý luận cơ bản về Marketing 
1.1. Vai trò của Marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp 
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản của Marketing 
Nhiều người thường lầm tưởng Marketing với việc bán hàng và các 
hoạt động kích thích tiêu thụ vì vậy họ quan niệm Marketing là hệ thống các 
biện pháp mà người bán hàng sử dụng để cốt sao bán được hàng và thu được 
tiền về cho người bán. Tuy nhiên Marketing hiện đại được định nghĩa như 
sau: 
Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thỏa mãn nhu 
cầu, mong muốn của con người hay Marketing là một dạng hoạt động của con 
người nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. 
Từ góc độ doanh nghiệp thì Marketing là một dạng hoạt động chức 
năng của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu thông qua trao đổi hàng 
hóa trên thị trường và trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, mong muốn của 
khách hàng mục tiêu. 
Vậy nhu cầu, mong muốn, khách hàng mục tiêu… là gì? 
Nhu cầu thường được người ta hiểu một cách quá đơn giản là sự đòi 
hỏi của con người về một vật phẩm nào đó. Nhưng thực ra thuật ngữ đó bao 
hàm một nội dung rộng lớn hơn mà nếu nhà kinh doanh chỉ dừng ở đó thì khó 
có thể tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình lên được. Nhu cầu là một 
thuật ngữ mà nội dung của nó hàm chứa ba mức độ: nhu cầu tự nhiên, mong 
muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán. 
Nhu cầu tự nhiên phản ánh sự cần thiết của con người về một vật 
phẩm. Nhu cầu tự nhiên là một trạng thái tâm lý của con người, là một sự 
thiếu hụt cái gì đó mà con người chủ thể có thể cảm nhận được, nó là nguồn 
gốc của mọi sự khát khao, là động lực của hành động. Khi xuất hiện nhu cầu 
 3
tự nhiên con người có hai cách giải quyết đó là kiềm chế nhu cầu hoặc tìm 
cách thỏa mãn nhu cầu bằng cách tìm đối tượng để thỏa mãn và nhìn chung 
người ta sẽ chọn cách thứ hai, đây chính là cách thức tồn tại của con người. 
Marketing không thể tạo ra nhu cầu tự nhiên cũng không thể sáng 
tạo ra nó nhưng Marketing có khả năng phát hiện ra nhu cầu tự nhiên. Tuy 
nhiên nếu hoạt động của các nhà quản trị Marketing chỉ dừng lại ở việc phát 
hiện ra nhu cầu tự nhiên của con người và sản xuất ra loại sản phẩm thuộc 
danh mục hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đó, thì trên thực tế họ không cần phải 
động não nhiều. Nhưng kinh doanh như vậy trong điều kiện hiện nay sẽ mang 
lại hiệu quả rất thấp, trừ khi doanh nghiệp kinh doanh loại sản phẩm ở vào vị 
thế độc quyền. 
Rõ ràng người làm Marketing không thể chỉ dừng lại ở nhu cầu tự 
nhiên, để tạo ra được sản phẩm hàng hóa thích ứng với nhu cầu thị trường, 
tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 
người ta phải hiểu một khía cạnh thứ hai của nhu cầu thị trường đó là mong 
muốn. 
Mong muốn là một dạng cụ thể của nhu cầu tự nhiên gắn liền với 
những điều kiện cụ thể, những đặc điểm cụ thể về mọi phương diện của con 
người cá thể như trình độ văn hóa, tính cách cá nhân,… Ví dụ, đói là một cảm 
giác thiếu hụt lương thực, thực phẩm trong dạ dày, sự đòi hỏi về lương thực 
và thực phẩm để chống đói là nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng người 
này thì muốn ăn cơm, người khác lại muốn ăn bánh mì, người này muốn ăn 
cơm khô, người khác lại muốn ăn cơm dẻo… Những sự khác nhau đó trong 
nhu cầu đòi hỏi được đáp lại bằng cùng một loại sản phẩm nhưng có những 
đặc tính khác nhau phản ánh ước muốn của con người. 
Như vậy mong muốn ở đây là đề cập đến cách thức để thỏa mãn 
nhu cầu tự nhiên, nhu cầu chính là cơ sở của mong muốn, mong muốn là dạng 
đặc thù của nhu cầu tự nhiên, một nhu cầu có thể hướng tới nhiều mong muốn 
 4
và do đó mà hướng tới nhiều hàng hóa khác nhau, vì mong muốn luôn luôn 
biến đổi rất phong phú do nó mang dấu ấn văn hóa và tính cách cá nhân của 
con người. Mong muốn đòi hỏi một sản phẩm cụ thể và chỉ khi doanh nghiệp 
phát hiện ra mong muốn thì họ mới thiết kế được sản phẩm cung ứng ra thị 
trường. 
Nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn, nhà kinh 
doanh không chỉ phát hiện và sản xuất ra sản phẩm để thích ứng với chúng 
như là những sản phẩm cho không, mà phải thông qua trao đổi để vừa thỏa 
mãn lợi ích của người tiêu dùng, vừa thỏa mãn mục đích của nhà kinh doanh. 
Vì vậy trong khi đáp lại nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người nhà 
kinh doanh phải tính đến một nội dung khác của nhu cầu thị trường đó là nhu 
cầu có khả năng thanh toán. 
Nhu cầu có khả năng thanh toán là đối tượng khai thác trực tiếp của 
Marketing vì đây mới là nhu cầu hiện thực đem lại doanh thu và lợi nhuận 
cho doanh nghiệp. Nhu cầu có khả năng thanh toán chính là mong muốn được 
hỗ trợ bởi sức mua và phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng. Tức 
là nó gắn với hai điều kiện người tiêu dùng phải có mong muốn và người tiêu 
dùng có khả năng chi trả và sẵn sàng chi trả. 
Để hiểu được nhu cầu thị trường đòi hỏi nhà quản trị Marketing 
phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng về các phương diện 
của nhu cầu. Doanh nghiệp muốn thắng lợi trong cạnh tranh thương trường, 
muốn đi đầu trong việc làm thỏa mãn và khai thác nhu cầu thị trường, muốn 
khỏi rơi vào thế đối phó bị động, thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định 
đúng đắn nhu cầu là một loại hoạt động tất yếu phải được thực hiện thường 
xuyên và chủ động bởi một bộ phận chuyên môn. 
Trong kinh doanh muốn có cơ hội thực sự thì phải đo lường được 
cầu về số lượng và tính chất. Hiểu được nhu cầu thị trường , bước tiếp theo 
doanh nghiệp cần thiết kế được sản phẩm. Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi 
 5
hàng hóa và dich vụ có thể đem chào bán, có khả năng thỏa mãn một nhu cầu 
hay mong muốn nào đó của con người, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm 
và tiêu dùng của họ. Ý nghĩa lớn nhất của sản phẩm đối với người tiêu dùng 
không phải là quyền sở hữu chúng mà là chúng đã thỏa mãn nhu cầu mong 
muốn của người tiêu dùng như thế nào. Như vậy nhiệm vụ đặt ra cho cac nhà 
kinh doanh là phải xác định chính xác nhu cầu mong muốn và do đó lợi ích 
mà người tiêu dùng cần được thỏa mãn, từ đó sản xuất và cung cấp những 
hàng hóa và dịch vụ có thể đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu 
dung. 
Nhiều nhà kinh doanh thường phạm phải sai lầm là: chỉ chú ý tới 
bản thân sản phẩm, mà coi nhẹ những lợi ích do sản phẩm đó có thể mang lại. 
Trái lại, các doanh nghiệp thực hàng Marketing thành công thường hành động 
theo triết lý: “hãy yêu quý khách hàng hơn là sản phẩm” hoặc là: “hãy quan 
tâm tới lợi ích có thể đem lại cho khách hàng hơn là sản phẩm” 
Khi khách hàng quyết định mua sắm một nhãn hiệu hàng hóa cụ thể 
họ thường kỳ vọng vào những lợi ích do tiêu dùng nhãn hàng hóa đó mang 
lại. Cùng một nhu cầu có nhiều hàng hóa hoặc nhãn hiệu hàng hóa có thể 
hướng đến để thỏa mãn nhưng theo cảm nhận của người tiêu dùng thì mức độ 
cung cấp những lợi ích của các hàng hóa đó không giống nhau. Hàng hóa này 
có ưu thế về cung cấp lợi ích này, nhưng lại có hạn chế trong việc cung cấp 
lợi ích khác. Khi quyết định mua buộc người tiêu dùng phải lựa chọn, để lựa 
chọn người tiêu dùng phải căn cứ vào khả năng cung cấp các lợi ích và khả 
năng thỏa mãn nhu cầu của từng hàng hóa. 
Giá trị tiêu dùng đối với một hàng hóa là sự đánh giá của người tiêu 
dùng về khả năng của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu đối với họ. Lợi ích mà 
người tiêu dùng kỳ vọng gồm lợi ích vật chất, tinh thần, xã hội và những lợi 
ích khác như: sự hài lòng, thoải mái…, những lợi ích này không chỉ do sản 
 6
phẩm mang lại mà còn do sự nỗ lực ở tất cả các khâu như: bán hàng, quảng 
cáo, phân phối hàng hóa tới tận tay người tiêu dùng… 
Việc đánh giá giá trị tiêu dùng đối với các hàng hóa là suy diễn đầu 
tiên của khách hàng hướng đến với hàng hóa. Để dẫn tới quyết định mua hàng 
khách hàng phải quan tâm tới chi phí đối với nó. Theo quan niệm của người 
tiêu dùng thì chi phí đối với một hàng hóa là tất cả những hao tổn mà người 
tiêu dùng phải bỏ ra để có được những lợi ích do tiêu dùng hàng hóa đó mang 
lại. Như vậy để có được những lợi ích tiêu dùng khách hàng phải chi ra tiền 
của sức lực, thời gian và thậm chí cả chi phí do khắc phục những hậu quả phát 
sinh bởi việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa. Những chi phí này bao gồm cả chi 
phí mua sắm, sử dụng và đào thải sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để khách hàng 
lựa chọn những hàng hóa khác nhau trong việc thỏa mãn cùng một nhu cầu. 
Khi đã đánh giá được giá trị tiêu dùng và chi phí đối với từng hàng 
hóa khách hàng đã có căn cứ để lựa chọn hàng hóa. Tất nhiên khách hàng sẽ 
lựa chọn hàng hóa nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ tốt nhất. Sự thỏa 
mãn là mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ việc 
so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với những kỳ vọng của 
họ. Như vậy người làm Marketing cần phải rút ra được những kinh nghiệm đó 
là: để sản phẩm tiêu thụ một cách dễ dàng cần tăng giá trị tiêu dùng và giảm 
chi phí sử dụng của người tiêu dùng và không thể dùng Marketing không 
trung thực để phát triển kinh doanh như quảng cáo, lăng xê, gian lận thương 
mại. 
Có thể thấy Marketing xuất hiện khi người ta quyết định thỏa mãn 
nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là hành động tiếp nhận 
một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho họ một 
thứ khác. Trao đổi là khái niệm căn bản nhất tạo nền móng cho hoạt động 
Marketing nhưng để tiến tới trao đổi cần phải có các điều kiện sau: 
• Ít nhất phải có hai bên. 
 7
• Mỗi bên cần phải có một thứ gì đó có giá trị đối với bên kia. 
• Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao thứ mình 
có. 
• Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay từ chối đề nghị 
của bên kia. 
• Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với 
bên kia. 
Trao đổi là một quá trình chứ không phải là một sự việc, hai bên 
được xem là đang thực hiện trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến 
những thỏa thuận. Khi đã đạt được sự thỏa thuận thì người ta nói rằng một 
giao dịch đã hoàn thành. Giao dịch là đơn vị đo lường cơ bản của trao đổi. 
Giao dịch là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị 
giữa hai bên. 
Như vậy các giao dịch thương mại chỉ có thể diễn ra thực sự khi hội 
đủ các điều kiện: 
• Ít nhất có hai vật có giá trị. 
• Những điều kiện thực hiện giao dịch đã thỏa thuận xong. 
• Thời gian thực hiện đã thỏa thuận xong. 
• Địa điểm thực hiện đã thỏa thuận xong. 
Những thỏa thuận này có thể được thể hiện trong cam kết hoặc hợp 
đồng giữa hai bên, trên cơ sở một hệ thống luật pháp buộc mỗi bên phải thực 
hiện cam kết của mình. 
Khái niệm trao đổi, giao dịch dẫn ta đến khái niệm thị trường. Thị 
trường là tập hợp những người mua nhất định có nhu cầu và mong muốn cụ 
thể mà doanh nghiệp có thể thỏa mãn được, thị trường bao gồm những người 
mua hiện tại và tiềm ẩn. Như vậy theo quan niệm này thì quy mô thị trường sẽ 
 8
tùy thuộc vào số người có cùng nhu cầu và mong muốn, vào lượng thu nhập, 
lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hóa thỏa mãn nhu cầu 
và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc vào số người đã mua 
hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác 
nhau. Marketing quan niệm những người bán hợp thành ngành sản xuất cung 
ứng còn người mua hợp thành thị trường. Do đó thuật ngữ thị trường được 
dùng để ám chỉ một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định 
được thỏa mãn bằng một loại sản phẩm cụ thể, họ có đặc điểm giới tính hay 
tâm sinh lý nhất định, độ tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể. 
Qua những khái niệm trên chúng ta đã có thể hiểu được một cách 
đầy đủ và đúng đắn về khái niệm Marketing nói chung. Từ đó thấy được bản 
chất của Marketing là đạt được mục tiêu của chủ thể bằng cách thỏa mãn nhu 
cầu mong muốn của khách thể. Đứng trên góc độ doanh nghiệp thì bản chất 
của Marketing là các hoạt động để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của thị 
trường. 
1.1.2. Vai trò và vị trí của Marketing trong hoạt động 
kinh doanh 
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời lý thuyết Marketing hiện đại và ứng 
dụng nó là một quá trình, quá trình đó gắn liền với quá trình tìm kiếm các triết 
lý và phương pháp quản trị doanh nghiệp hướng ra thị trường. Trong thực tiễn 
tồn tại 5 triết lý hay 5 quan điểm định hướng cho kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
Khi nền kinh tế chưa phát triển hay phát triển thấp, cung chưa đáp 
ứng đủ cầu, sản xuất chưa đáp ứng được tiêu dùng và nhu cầu của người tiêu 
dùng còn giản đơn thì quan điểm chỉ đạo các nhà kinh doanh là: quan điểm 
định hướng sản xuất. Quan điểm này cho rằng: Người tiêu dùng sẽ ưu thích 
nhiều sản phẩm được bán rộng rãi với giá hạ. Vì vậy những nhà quản trị các 
doanh nghiệp cần phải tập trung vào việc tăng quy mô sản xuất và mở rộng 
 9
phạm vi tiêu thụ. Như vậy ở đây người ta cho rằng điều mấu chốt nhất quyết 
định sự thành bại của doanh nghiệp là số lượng sản phẩm sản xuất ra và mức 
giá bán, nhưng hiện nay quan điểm này đã quá lỗi thời. 
Những năm 20, 30 của thế kỷ XX khi nền kinh tế đã phát triển khả 
năng cung ứng sản phẩm đã tốt hơn, nhu cầu của người tiêu dùng đã nâng cao 
kèm theo sức mua đã gia tăng thì quan điểm định hướng vào hoàn thiện sản 
phẩm ra đời. Theo quan điểm này thì: người tiêu dùng luôn ưa thích những 
sản phẩm có chất lượng cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy 
các nhà quản trị doanh nghiệp muốn thành công phải luôn tập trung mọi 
nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng hoàn hảo nhất và 
thường xuyên cải tiến chúng.. Ưu điểm của quan điểm này là đã chú ý đến lợi 
ích của người tiêu dùng, tuy nhiên nhược điểm là chưa chú ý đến nhu cầu và 
mong muốn của khách hàng . 
Khi nền kinh tế phát triển mạnh nhờ sự phát triển mạnh của cung 
thỏa mãn cầu và bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa, tiêt thụ sản phẩm trở 
nên khó khăn do cạnh trạnh khốc liết thì quan điểm tập trung vào bán hàng ra 
đời. Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức 
ỳ hay thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vậy để 
thành công doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc 
thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi. Tuy nhiên quan điểm này có hạn chế đó là 
vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vá mong muốn của người tiêu dùng mà chỉ chú ý 
đến khâu bán hàng. 
Giữa thế kỷ XX, các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh gay 
gắt và sự thường xuyên biến đổi của nhu cầu, điều đó đòi hỏi người cung ứng 
phải bán những thứ thị trường cần chứ không phải những gì mình có, do đó 
quan điểm Marketing ra đời. Nội dung của quan điểm là: chìa khóa để đạt 
được mục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp là phải xác định đúng nhu 
cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu từ đó tìm ra những biện pháp thỏa 
 10
mãn nhu cầu mong muốn này bằng phương thức có lợi thế hơn hẳn đối thủ 
cạnh tranh. 
Đến những năm 90 của thế kỷ XX xã hội phải đối mặt với những 
vấn nạn như lãng phí tài nguyên, môi trường sinh thái bị phá vỡ, sự giảm sút 
các chuẩn mực xã hội… thì quan điểm Marketing đạo đức xã hội ra đời. Theo 
quan điểm thì nhiệm vụ của doanh nghiệp là xác định đúng đắn những nhu 
cầu mong muốn của thị trường mục tiêu trên cơ sở đó đảm bảo thỏa mãn nhu 
cầu và mong muốn này bằng phương thức hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh 
đồng thời bảo toàn hoặc củng cố mức sống sung túc cho người tiêu dùng và 
xã hội. Có thể thấy đây là quan điểm tiến bộ và hiện đại nhất cho đến nay. 
Như vậy doanh nghiệp cần phải hiểu đúng khái niệm Marketing và 
xác định đúng quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu và vận dụng Marketing vào 
hoạt động kinh doanh của mình bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hướng đi 
của doanh nghiệp. Có định hướng đúng doanh nghiệp sẽ có cơ hội thành công 
hơn, nhất là trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường. 
Qua nghiên cứu và phân tích lịch sử phát triển của Marketing các 
nhà kinh tế còn khẳng định Marketing ra đời trước hết chính là để nhằm hỗ 
trợ có hiệu quả cho hoạt động thương mại, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết 
những khó khăn rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt cũng như xác định được 
cơ hội của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra giải pháp kinh 
doanh có hiệu quả nhất. 
Marketing còn có chức năng hết sức quan trọng đó là chức năng kết 
nối mọi hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Marketing hướng các nhà 
quản trị vào việc trả lời hai câu hỏi: 
Một là, liệu thị trường có cần hết hay mua hết số sản phẩm doanh 
nghiệp tạo ra hay không? 
 11
Hai là, liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có 
đủ tiền mua hay không? 
Qua đó Marketing đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và mong muốn 
của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. 
Marketing là một chức năng cơ bản của kinh doanh, nó là đầu mối 
quan trọng của một cơ thể quản lý thống nhất, trong điều kiện của kinh tế thị 
trường. Nhìn chung chức năng hoạt động Marketing của doanh nghiệp luôn 
luôn chỉ cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản sau: 
• Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng ở 
đâu? Họ là nam hay nữ? Già hay trẻ? Họ mua bao nhiêu? Vì 
sao họ mua? 
• Họ cần loại hàng hóa nào? Loại hàng hóa đó có những đặc 
tính gì? Bao gói ra sao? Vì sao họ cần những đặc tính đó ma 
không phải là những đặc tính khác, những đặc tính hiện thời 
của hàng hóa còn thích hợp với khách hàng nữa hay không? 
So với hàng hóa của nhãn hiệu cạnh tranh, hàng hóa của công 
ty có những ưu thế và hạn chế gì? Có cần phải thay đổi hàng 
hóa không? Thay đổi yếu tố và đặc tính nào? Nếu không thay 
đổi thì sao? Nếu thay đổi thì sẽ gặp những điều gì? 
• Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Tại sao lại 
quy định mức giá như vậy mà không phải là mức giá khác? 
Mức giá trước đây còn thích hợp không? Nên tăng hay giảm 
giá? Khi nào tăng hoặc giảm? tăng giảm bao nhiêu? Ở đâu? 
Với ai? 
 12
• Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hàng hay dựa vào 
lực lựong khác? Cụ thể dựa vào ai? Khi nào thì đưa hàng hóa 
ra thị trường? khối lượng là bao nhiêu? 
• Làm thế nào để khách hàng biết, mua và yêu thích hàng hóa 
của doanh nghiệp? Tại sao lại dùng cách thức này mà không 
dùng cách thức khác? Các hàng hóa cùng loại người ta giới 
thiệu với công chúng bằng cách nào? Tại sao người ta làm 
vậy? 
• Hàng hóa của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán 
không? Loại dịch vụ nào doanh nghiệp có khả năng cung cấp 
nhất? vì sao? Vì sao doanh nghiệp lựa chọn loại dịch vụ này 
mà không phải loại khác?... 
Đó là những vấn đề mà ngoài chức năng Marketing ra thì không 
một hoạt động chức năng nào khác của công ty phải có trách nhiệm trả lời, 
điều này phản ánh tính chất độc lập của chức năng Marketing so với các chức 
năng quản lý khác của công ty. Đương nhiên khi đề cập đến những nội dung 
trên nhà quản trị Marketing không thể thoát ly khỏi các khả năng về tài chính, 
về sản xuất và công nghệ, trình độ của nguồn nhân lực,... vì giữa chúng có 
mối liên hệ với nhau. 
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì Marketing thương mại 
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Marketing thương mại được hiểu là: 
“quá trình tổ chức, quản lý và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng 
và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức trên 
cơ sở thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của nhà sản xuất, nhà thương mại 
và người tiêu thụ”. 
Mục tiêu của Marketing thương mại cuối cùng vẫn là đảm bảo lợi 
nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên 
 13
thị trường. Nhưng mục tiêu trực tiếp của Marketing thương mại có thể được 
xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ sản phẩm của doanh 
nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận. Marketing thương 
mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt 
động thương mại. Thực chất của Marketing thương mại là xác định lại cho 
phù hợp với điều kiện của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và 
khách hàng trong hoạt động kinh tế. Từ đó sử dụng một cách đồng bộ và khoa 
học các quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong 
quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm. 
1.2. Nội dung của quản trị Marketing 
Quản trị Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra 
việc thi hành các biện pháp nhằm thiết lập củng cố và duy trì những cuộc trao 
đổi có lợi với những người mua đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu 
của doanh nghiệp đã đề ra. 
Các quan điểm quản trị Marketing là những tư tưởng cơ bản của 
Marketing đóng vai trò định hướng hoạt động Marketing của doanh nghiệp 
nhằm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng và giúp doanh nghiệp 
cạnh tranh có hiệu quả. Có 5 quan điểm quản trị Marketing và đã được trình 
bày ở phần trên. Bản chất của quá trình quản trị Marketing là gồm 3 bước: 
• Bước 1: tìm kiếm và lựa chọn giá trị: tức là nghiên cứu và 
tìm kiếm giá trị chưa được thỏa mãn và lựa chọn giá trị cung 
ứng để thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng 
• Bước 2: tạo giá trị : tìm kiếm các ý tưởng thiết kế những sản 
phẩm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng là định 
giá bán hợp lý, thiết kế kênh phân phối. 
 14
• Bước 3: thông báo giá trị: thực hiện các hoạt động truyền 
thông lựa chọn những hình thức tiêu thụ hợp lý, thực hiện các 
dịch vụ hỗ trợ khách hàng. 
Quá trình quản trị Marketing gồm 5 bước sau: 
1. phân tích các cơ hội Marketing. 
2. phân đoạn thị trường lựa chọn thị trường mục tiêu 
3. lập kế hoạch chiến lược Marketing 
4. hoạch định chương trình Marketing 
5. tổ chức thực hiện kiểm tra kiểm soát (và điều chỉnh 
nếu có) 
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động Marketing 
của doanh nghiệp 
Hoạt động Marketing của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng chịu tác 
động của nhiều nhân tố, các nhân tố đó hình thành môi trường kinh doanh của 
một doanh nghiệp. Môi trường được tiếp cận dưới góc độ Marketing là môi 
trường Marketing. 
 Môi trường Marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực 
lượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu 
cực đến hoạt động hoặc ra các quyết định của bộ phận Marketing trong doanh 
nghiệp đến khả năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với 
khách hàng. 
Những thay đổi của môi trường Marketing ảnh hưởng sâu sắc và 
mạnh mẽ tới các doanh nghiệp. Bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu tới kinh 
doanh. Môi trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ 
dàng phát h
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 da165_1743.pdf da165_1743.pdf