Đề tài Đạo đức kinh doanh – Thực trạng và giải pháp

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được chia làm 3 chương như sau:

Chương 1: Những lý luận cơ bản về đạo đức kinh doanh.

Chương 2: Thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp nâng cao đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam.

 

doc94 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đạo đức kinh doanh – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c xã hội mới này sẽ phản ánh, điều chỉnh một cách hài hòa quan hệ giữa lợi ích chung của xã hội và các loại lợi ích đa dạng khác do sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế tạo ra. Đó chính là cơ sở để hình thành nên những giá trị, những chuẩn mực đạo đức mới trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể, trong đó có lĩnh vực sản xuất kinh doanh. 3.2. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. 3.2.1 Giải pháp về phía nhà nước: 3.2.1.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa làm cơ sở kinh tế cho đạo đức kinh doanh. Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã có những bước tiến lớn và ngày càng có quan hệ chặt chẽ với đời sống con người. Thị trường trở thành khâu then chốt trong hoạt động kinh tế của cả loài người, gắn liền quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Đối với Việt Nam, việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, nền kinh tế thị trường chỉ mới thành công ở các nước tư bản chủ nghĩa, còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường như thế nào thì chưa có một hình mẫu hoàn chỉnh để chúng ta học hỏi và tham khảo. Có thể coi đây như một bài toán khó, đòi hỏi toàn Đảng và toàn dân tộc Việt Nam phải tự đi tìm lời giải cho chính mình. Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, nền kinh tế thị trường bản thân nó luôn có tính hai mặt, một mặt là những ảnh hưởng tích cực, kích thích và tạo động lực cho sự phát triển, nhưng mặt khác, nó là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng những tệ nạn, những thói hư, tật xấu, làm đảo lộn các giá trị, đặc biệt là các giá trị đạo đức. Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay phát triển chưa đầy đủ. Những nét đặc thù của nền kinh tế đó đã và đang có những tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần (trong đó có đạo đức của toàn xã hội) làm nảy sinh nhiều vấn đề nhức nhối, những diễn biến phức tạp. Vì thế, việc tạo lập một cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nó thực sự là cơ sở kinh tế của đạo đức, đặc biệt là đạo đức kinh doanh, làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, qua đó góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống tinh thần của xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết. Để thực hiện được điều này, trên thực tế đang có nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải quan tâm. Trước hết, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước. Đây là yêu cầu khách quan đối với tất cả các nước có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Thứ hai, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, gắn với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình đó, chúng ta cần quan tâm đến môi trường đạo đức và tạo lập môi trường đạo đức với những nhu cầu và chuẩn mực đạo đức thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội để góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng nhân văn. Thứ ba, chúng ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ. Cho nên, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta không những phải theo hướng hiện đại mà còn phải hòa nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Thứ tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta không chỉ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải kết hợp phát triển kinh tế với thúc đẩy tiến bộ xã hội, “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là nhằm xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là một xã hội công bằng, nhân đạo và tốt đẹp. Lúc sinh thời, Người đã từng nói: Đất nước độc lập, tự do mà người dân không được hạnh phúc và phát triển thì độc lập, tự do đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, Người đã cống hiến cả cuộc đời cho đân tộc, cho đất nước với mong muốn: đất nước được độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Cần phải tích cực trong việc xóa bỏ cơ chế cũ, tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và thiết lập một thị trường thực sự lành mạnh trên cơ sở tôn trọng đối tác, tôn trọng khách hàng và tuân thủ luật pháp. Ngoài ra, trong hoạt động của mình, các chủ thể kinh doanh phải xuất phát từ tinh thần, trách nhiệm công dân và lương tâm của con người. Họ phải trung thực, trọng chữ “tín”; phải quan tâm đến việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực; phải chú ý đến việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, truyền thống văn hóa để đảm bảo sự phát triển bền vững, nhằm xây dựng một xã hội theo tiêu chí của tiến bộ và nhân đạo. Thứ năm, trong quá trình phát triển, cần phải hoàn chỉnh các loại thị trường mà nước ta còn thiếu hoặc không đồng bộ như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học, công nghệ... Thứ sáu, để hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải coi việc quản lý xã hội bằng luật pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, luật pháp không chỉ là công cụ quản lý nhà nước mà còn được sử dụng để điều chỉnh hành vi con người nhằm bảo vệ các giá trị, chống lại những hành vi phi pháp, phi nhân và giữ gìn kỷ cương, phép nước. Hiện nay, nước ta vẫn còn đứng trước vô vàn những khó khăn và thách thức gay gắt. Tuy nhiên, thành quả của công cuộc đổi mới đã chứng tỏ sự đúng đắn, linh hoạt trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Với những “thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, một khi cơ chế thị trường ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt việc “tiếp tục chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường” một cách đầy đủ trong khuôn khổ pháp luật thì đất nước sẽ nhanh chóng phát triển lành mạnh, bền vững. 3.2.1.2 Bổ sung hoàn thiện khung pháp luật tạo cơ sở pháp lí cho đạo đức kinh doanh. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, cùng với nhà nước, pháp luật - hệ thống các quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế; nói cách khác, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện ra thành luật lệ (các đạo luật, bộ luật) của nhà nước ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của nhà nước. Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Để nâng cao vai trò cũng như thúc đẩy đạo đức phát triển thì không thể thiếu vai trò của pháp luật. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được tôn trọng, hành vi đạo đức dần trở thành nhu cầu thôi thúc trong mọi hoạt động của con người. Giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ qua lại, bổ sung lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức kinh doanh cũng không nằm ngoài mối quan hệ đó. Một bộ phận của quy tắc đạo đức bắt nguồn từ các quy phạm có tính chất pháp luật do các cơ quan thẩm quyền đề ra. Nhưng trong thực tế, yêu cầu về việc chấp hành các quy phạm có tính chất luật pháp cũng là yêu cầu thuộc phạm trù đạo đức, trong đó có đạo đức kinh doanh. Tuy nhiên, giữa pháp luật và đạo đức cũng có sự khác biệt. Nếu pháp luật nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực nào đó và việc thực hiện có tính chất bắt buộc những quyền và nghĩa vụ này, thì đạo đức lại chú trọng đạo lý và tình cảm của công dân, để họ tự giác và tự nguyện thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Điều đó có nghĩa là đạo đức luôn đề cao tính nhân bản, khơi dậy sự hướng thiện trong từng con người. Khi người kinh doanh làm được điều này, sẽ có được niềm tin từ xã hội, tức là đạt được chữ “tín” mà cộng đồng dành cho. Ở nước ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường còn kém phát triển, một bộ phận nhân dân kém hiểu biết về pháp luật cộng với những bất cập của hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật. Cụ thể là: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng” . Đây là những biểu hiện tiêu cực đi ngược lại truyền thống đạo đức của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội. Để khắc phục tình trạng đó, đòi hỏi luật pháp phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự kỷ cương. Bởi vì, “nếu đạo lý không đủ sức mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án”. Công cuộc đổi mới ở nước ta đang ngày càng có những chuyển biến tích cực, tình hình chính trị xã hội về cơ bản là ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn khả quan, lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ, v.v.. Những thắng lợi này, có phần đóng góp không nhỏ của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn thường xuyên nảy sinh nhiều vấn đề, thể hiện sự chưa phù hợp và còn thiếu nhiều quy định cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý kinh tế và sản xuất, kinh doanh. Bởi vậy, một trong những yêu cầu của Đảng ta hiện nay là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần quan tâm tới công tác giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phải trang bị kiến thức pháp luật cho mọi chủ thể khi tham gia thị trường, để cho họ biết luật, tôn trọng luật và có ý thức làm đúng luật. Cùng với công tác giáo dục pháp luật, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng. Khắc phục lối làm việc “trọng tình hơn trọng lý”, xóa bỏ suy nghĩ “phép vua thua lệ làng”. Đảm bảo đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều bình đẳng, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Theo đó, pháp luật là công cụ hữu hiệu “nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cải thiện vốn có trong mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe”. Vì thế, việc nâng cao ý thức pháp luật, thực thi pháp luật thật nghiêm minh là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có đạo đức. Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn hơn vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Đảng ta chủ trương “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật”, nhằm “xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả, bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, luôn luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Tiếp tục với tinh thần này, đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa khẳng định, cần phải “tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật” . Sau đó, Đại hội IX của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định rằng, chúng ta cần “xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Gần đây, đại hội XI của Đảng một lần nữa yêu cầu: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”. Điều đó cho thấy việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi dưỡng một nền đạo đức mới. Thứ hai, để tăng cường vai trò của pháp luật thì cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt những bộ luật liên quan đến sản xuất, kinh doanh. Tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp hoạt động tự chủ và thực sự bình đẳng trước pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”. Trong quá trình đó, chúng ta phải biết tiếp thu những giá trị của dân tộc cũng như kinh nghiệm của các nước, đảm bảo xây dựng “luật nước” trên cơ sở từ những “lệ hay”. Thứ ba, để nâng cao vai trò và hiệu quả của pháp luật, làm cho pháp luật thực sự trở thành công cụ bảo vệ, nuôi dưỡng cái tốt, cái thiện, bài trừ cái xấu, cái ác thì không thể không quan tâm đến chất lượng của các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Các cơ quan bảo vệ pháp luật và bản thân những người đại diện cho pháp luật phải đảm bảo có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực. Bởi chính họ là người đại diện cho “cán cân công lý”, là người trực tiếp thực thi pháp luật. Thứ tư, để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc, bất kể người đó là ai. Phải tạo nên một môi trường pháp luật lành mạnh, trong đó mọi công dân đều có ý thức tôn trọng pháp luật và nhà nước thi hành pháp luật một cách nghiêm minh. Thứ năm, giáo dục pháp luật gắn liền với giáo dục đạo đức. Chúng ta đều biết, một hệ thống pháp luật dù là hoàn chỉnh cũng không thể đem lại hiệu quả nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Cho nên, để nâng cao hiệu quả của pháp luật, cần phải coi trọng công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ và tư vấn pháp luật. Giáo dục pháp luật (về bản chất), là hoạt động có tổ chức của chủ thể giáo dục nhằm hình thành tình cảm, tri thức và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật hiện hành. Giáo dục pháp luật nếu được kết hợp với giáo dục đạo đức thì hiệu quả sẽ cao hơn, tốt hơn. Bởi vì, cả pháp luật và đạo đức đều hướng hành vi con người tới cái tốt, cái thiện, ngăn cấm cái xấu, cái ác. Ngoài ra, để tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành đạo đức mới, đặc biệt là đạo đức kinh doanh, cần đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế - xã hội; chủ động khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong các cơ chế chính sách quản lý kinh tế - xã hội; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, xã hội cũng cần phải tăng cường hơn nữa lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Và để cho pháp luật thực sự có hiệu quả trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương của xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành đạo đức mới thì mỗi người (cụ thể là các chủ thể kinh doanh) phải có ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp. Bởi vì, pháp luật không chỉ là phương tiện để quản lý xã hội, mà pháp luật còn là “công cụ quan trọng để bảo đảm sự ổn định xã hội vì nó thể chế hoá quyền con người, quyền công dân và bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Tất cả những vấn đề có liên quan đến an toàn tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, tự do, bình đẳng, công bằng đều có sự điều chỉnh của pháp luật.” Như vậy, muốn xã hội ổn định, phát triển và ngày càng tiến bộ đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật chặt chẽ, hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả trong thực thi pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Đây là cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển đạo đức mới nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. 3.2.1.3 Cần những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp thực hiện đạo đức kinh doanh Chúng ta cần ý thức rằng, không có một ranh giời cố định nào về đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy các cơ quan nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như các giải thưởng: Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng, và đưa thành tích trong đạo đức kinh doanh vào hồ sơ xét duyệt. Các cơ quan thông tin, truyền thông cần đưa tên tuổi các doanh nghiệp trên lên nhiều trang báo mạng, truyền hình, để tôn vinh và đưa tên tuổi các doanh nghiệp trên gần hơn với người tiêu dùng. 3.2.1.4 Xây dựng bộ quy tắc ứng xử và các hệ thống chuẩn mực thống nhất trong doanh nghiệp. Người trực tiếp và có quyết định chủ yếu tới kết quả của việc xây dựng đạo đức kinh doanh chính là các doanh nhân. Bởi vậy, để đạo đức kinh doanh hình thành một cách tự giác, tự nguyện và được đầu tư đúng mức thì trước hết phải làm cho tầng lớp doanh nhân nhận thức được tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh. Họ cần phải nhận thức được rằng, kinh doanh có đạo đức sẽ tạo một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, và cần phải hành động đổi mới chiến lược đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Để cung cấp kiến thức và giúp các doanh nhân hiểu được tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh, Nhà nước cần hỗ trợ và tạo điều kiện xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp, các diễn đàn doanh nghiệp; tổ chức các khóa học, hội thảo quốc tế và trong nước bàn về đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội; đầu tư cho các viện nghiên cứu về văn hóa và đạo đức trong kinh doanh. Việc giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng cho học sinh, sinh viên, trong đó có học sinh, sinh viên các trường kinh tế (những doanh nhân tương lai) là một yêu cầu cần thiết để xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh bền vững. Tuy nhiên, vấn đề này ở nước ta hiện nay vẫn chưa được quan tâm nhiều. Thậm chí, khái niệm đạo đức kinh doanh cũng chưa được nghiên cứu một cách nghiêm túc với các nội dung và yêu cầu thiết yếu của nó. Chúng ta cần thấy rằng, việc thực hiện hành vi đạo đức, nói chung là tự nguyện, tự giác. Nhưng trong hoạt động kinh doanh, hành vi đạo đức tự nguyện, tự giác ấy phải luôn đạt tới “chuẩn mực thép”: tiêu chuẩn chất lượng (quốc gia và quốc tế), tuân thủ luật pháp, trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước,... Thực tế đời sống xã hội không cho phép mọi người kinh doanh chỉ hành động một cách vụ lợi, bất chấp những giá trị đạo đức. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, nội dung của nó ngày càng phong phú, đa dạng. Kinh doanh chỉ là một phương tiện chứ không phải là mục đích. Mục đích của nhà kinh doanh không nằm ngoài mục đích đem lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Hạnh phúc ở đây bao gồm những giá trị đạo đức, văn hóa, kinh tế được xã hội thừa nhận và tôn trọng. Chính vì những lý do trên mà cần phải có sự nghiên cứu khoa học, nghiêm túc về vấn đề đạo đức kinh doanh. Đồng thời, những nội dung của đạo đức kinh doanh cần phải được phổ cập đến mọi người, đặc biệt là những nhà kinh doanh, những học sinh, sinh viên các trường kinh tế và người lao động trong doanh nghiệp. Nếu không, họ sẽ không được xã hội chấp nhận và sớm bị thải loại. Xây dựng và lựa chọn những nội dung cơ bản cho việc giáo dục đạo đức kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia thuộc nhiều ngành có liên quan và có sự phối hợp giữa họ theo mục tiêu chung. Điều đó càng trở nên cần thiết khi quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các hoạt động kinh doanh được phát triển trên quy mô quốc gia và liên quốc gia. Bởi vậy, các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh cũng vượt ra ngoài phạm vi biên giới của một nước và đòi hỏi có những chuẩn mực đạo đức mang tính quốc tế. Chúng ta cần phải tham khảo tài liệu nước ngoài về đạo đức kinh doanh để xây dựng những nội dung của nó cho phù hợp với bản sắc và truyền thống dân tộc Việt Nam, nhưng vẫn mang tính quốc tế, hiện đại. 3.2.2 Giải pháp về phía doanh nghiệp. 3.2.2.1 Mỗi doanh nghiệp cần tuân thủ theo những bộ quy tắc ứng xử và các hệ thống chuẩn mực thống nhất do nhà nước ban hành. Thứ nhất, nhà kinh doanh thực hiện đầy đủ chủ quyền của mình trong toàn bộ quá trình kinh doanh theo quy định của pháp luật. Họ có trách nhiệm chủ động phát hiện, đề xuất và kiến nghị với Nhà nước những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp lý về kinh doanh. Xây dựng các mối quan hệ hợp tác bình đẳng trong kinh doanh, phát triển cạnh tranh lành mạnh. Tức là, cạnh trạnh phải bình đẳng theo pháp luật, cạnh tranh để thúc đẩy nhau phát triển, cạnh tranh phải bằng sức mạnh hàng hóa của mình trên thị trường, chứ không phải bằng quyền lực, bằng sự áp đặt, sự ưu đãi, hay sự chèn ép. Thứ hai, trong kinh doanh, nhà kinh doanh phải biết giải quyết đúng đắn ba vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai; phải biết lựa chọn tối ưu những lợi thế kinh tế cơ bản của doanh nghiệp mình. Phải thực hiện nhất quán mục tiêu đã lựa chọn và biết xác định rõ những nhiệm vụ, phương hướng để đạt mục tiêu đó. Đồng thời, phải sử dụng nguồn lực một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả để đem lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp, cho người lao động trong doanh nghiệp, cho ngành, địa phương mình và cho toàn xã hội. Vì nhu cầu là vô hạn, nhưng nguồn lực lại có hạn và ngày càng khan hiếm, cho nên các doanh nghiệp phải tiết kiệm và lựa chọn những phương án kinh doanh tối ưu. Thứ ba, trong kinh doanh, trước hết các chủ doanh nghiệp phải đảm bảo chữ “tín” đối với khách hàng của mình; cần tin tưởng vào những người lao động làm việc cho mình, khuyến khích tính sáng tạo và tài năng của họ trong những công việc cụ thể được giao, có chính sách, biện pháp khuyến khích bằng vật chất và tinh thần đúng mực đối với thành quả lao động mà họ đem lại cho doanh nghiệp; kính trọng và đối xử công bằng với mọi người lao động, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của họ và gia đình họ; duy trì, phát huy và đảm bảo sở hữu những sáng kiến, sáng tạo của người lao động; coi trọng việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Thứ tư, các nhà kinh doanh phải biết lấy tiêu chuẩn năng suất, chất lượng, giá thành, lợi nhuận và hiệu quả để đánh giá những thành công hay thất bại của mình, và chỉ có trên cơ sở đó mới đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Đồng thời, phải trung thành và nhất quán trong công việc, đặc biệt là phải giữ được mối quan hệ tin cậy, bền vững với người lao động trong doanh nghiệp – chủ doanh nghiệp phải là chỗ dựa đáng tin cậy của người lao động và ngược lại. Thứ năm, người lao động trong doanh nghiệp phải tuân thủ những nguyên tắc sau: - Hành động dựa trên lợi ích của doanh nghiệp. - Trung thực, khách quan và công bằng trong công việc. - Đảm bảo văn hóa giao tiếp với mọi người. - Bảo mật thông tin. - Giữ gìn và sử dụng có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. - Bảo vệ môi trường. - Nếu là cán bộ, nhân viên khối kinh doanh, khi tư vấn cho khách hàng không được nói quá về chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Không cung cấp thông tin sai về nguồn gốc nguyên vật liệu, phụ kiện cấu thành sản phẩm. Không lừa dối khách hàng trong bất cứ tình huống nào. Phục vụ khách hàng phải chu đáo. - Nếu là cán bộ, nhân viên mua hàng, phải thực hiện tất cả các hoạt động liên quan đến việc tìm kiếm, đánh giá lựa chọn nhà cung cấp một cách công bằng và minh bạch nhằm đảm bảo chất lượng và giá cả tốt nhất. Không được quyết định lựa chọn nhà cung cấp dựa trên sở thích cá nhân. Không được thông đồng với các nhà cung cấp hoặc cá nhân bên ngoài để thực hiện các giao dịch mua bán cho doanh nghiệp mình nhằm hưởng chênh lệch. Tuyệt đối không bao che lỗi cho nhà cung cấp. - Nếu là cán bộ, nhân viên kiểm soát và kiểm toán nội bộ, phải luôn đảm bảo tính trung thực, khách quan và có ý thức trách nhiệm cao để đảm bảo các kết quả công bố chính xác, rõ ràng. Xây dựng đội ngũ lãnh đạo là những con người có đạo đức kinh doanh Trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, đặc biệt từ khi đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_dao_duc_kinh_doanh_thuc_trang_va_giai_phap.doc
Tài liệu liên quan