Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kì và Trung Kì. Còn có thêm hai Phòng 
Thương mại và Canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng được cử đại 
biểu vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí và 2 thành phố. 26 
tỉnh là Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải Dương, Hải 
Ninh, Hà Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào 
Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phúc Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn Tây, Sơn 
La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái. 
Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt một số khu vực 
của một số tỉnh để thành lập tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng Sơn, 
Yên Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đạo quan binh thứ 5 gồm Lai Châu và 
Thượng Lào. Những đạo quan binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, 
tiễu phỉ, đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của nhân dân trong vùng. 
Hệ thống chính quyền của Bắc Kì từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể giống như 
ở Trung Kì.
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Đề tài Đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 Đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914) 
Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi 
Hàm Nghi xuất binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất bại 
của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy 
ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn 
cố gắng cầm cự, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng 
vùng và trên con đường tan rã. 
Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi 
Hàm Nghi xuất binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất bại 
của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy 
ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn 
cố gắng cầm cự, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng 
vùng và trên con đường tan rã. Duy có cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên 
Thế do Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) lãnh đạo trong tình thế bị bao vây o ép 
nên đến tháng 12 - 1897 buộc phải đình chiến lần thứ hai với kẻ thù. Thực 
dân Pháp cố tranh thủ thời gian này chuẩn bị mọi điều kiện chờ ngày triệt hạ 
pháo đài cuối cùng của phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta. Về phía nghĩa 
quân thì những hoạt động cuối cùng từ 1909 đến 1913 cũng chỉ là những đợt 
sóng cuối cùng của một cao trào yêu nước chống xâm lược của nhân dân ta 
mà thôi. 
Thực dân Pháp như vậy về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định Việt 
Nam về mặt quân sự, và trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay vào khai thác 
thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy 
mô. 
Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi 
cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 “1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bọ máy 
cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang. 
2. Sửa đổi lại chế đợ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho 
phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, 
và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương. 
3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống 
đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất cần thiết cho công cuộc khai 
thác. 
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực 
dân của người Pháp và lao động của người bản xứ. 
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải 
quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh. 
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên 
giới Bắc Kì. 
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước 
Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận". 
Đume rất am hiểu tình hình Đông Dương vì đã từng là nghị sĩ giữ chức 
Thượng thư Tài chính trong Chính phủ Pháp và là báo cáo viên những dự án 
luật thanh toán tạm thời và tổng thanh toán tài chính Bắc và Trung Kì. 
Chương trình khai thác do Đume vạch ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu 
là Việt Nam) từ những năm đầu thế kỉ XX có mục đích tối thượng là biến gấp 
Đông Dương thành một thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận 
cao nhất cho đế quốc Pháp. 
Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 đã đánh giá cao Dume: 
“Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa hầu 
như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính ông đã tạo dựng bộ 
máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế sẽ được 
duy trì nguyên vẹn đến tận 1945” 
1.Một bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ 
Mới đặt chân sang Việt Nam được vài tuần, Đume đã gửi về Bộ Thuộc địa 
một bản báo cáo tổng quát về tình hình Đông Dương: 
“Hiện nay tình hình chinh trị toàn cõi Đông Dương không một nơi nào đáng 
lo ngại hay quá bi đát. Thực tế, tại nhiều nơi cũng có những khó khăn có thể 
sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục dưới quyền 
thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính chất vĩnh viễn 
của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một giây 
phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu” 
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, 
Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị 
người Việt”. 
Một mặt, Đume tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam 
hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan 
tâm đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự 
phức tạp trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc. 
Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông 
Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, 
trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra 
sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 cắt làm 8 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. 
Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến 
về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào 
và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông 
Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, 
Campuchia trên bản đồ thế giới. 
Đứng đầu Liên bang Đông Dư¬ơng có Toàn quyền, là người thay mặt chính 
phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống đốc 
Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ ở Trung Kì, Lào, Campuchia. 
Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch Hội 
đồng là Toàn quyền, các Uỷ viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có hai 
người Việt đại biếu cho dân “bản xứ”. Các Uỷ viên là giám đốc các công sở, 
các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phòng Thương mại và Canh 
nông... 
Hội đồng họp thường kì mỗi năm một lần để bàn bạc và thông qua ngân sách 
Đông Dương, ngân sách hàng xứ, cùng các công việc do Toàn quyền đề xuất 
có liên quan đến việc thống trị và khai thác Đông Dương. 
Đến năm 1911, đổi thành Hội đồng Chính phủ Dông Dương gồm 23 ủy viên, 
có 4 người "bản xứ" do Toàn quyền lựa chọn và chỉ định hằng năm (gồm 3 
người Việt của 3 xứ và 1 người Campuchia). 
Văn phòng Phủ Toàn quyền gồm có các phòng: Chính trị, Hành chính, Quân 
sự, Nhân sự và Văn thư là cơ quan thường trực của Phủ Toàn quyền kiêm cả 
công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các cơ quan khác có Hội đồng 
phòng thủ Dông Dương thành lập ngày 31-10-1902; ủy ban Tư vấn về mỏ 
thành lập ngày 26-5-1913; Hội đồng Tư vấn Học chính Đông Dương thành 
lập ngày 21-12-1917; Sở chỉ đạo công việc chính trị và bản xứ, Sở tình báo 
An ninh trung ương (tức Sở mật thám)… 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính quyền các 
xứ Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động 
của chúng. 
Nam Kì là đất thuộc địa không có quan hệ phụ thuộc vào Nam triều. Ngày 8-
2-1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa Nam Kì, 
quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư vấn”, có thể bàn về thuế má, thu 
chi..., tuyệt đối không đư¬ợc đề cập đến vấn đề chính trị. Hội đồng thuộc địa 
có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đã vào “làng Tây”, nói được tiếng Pháp và 
một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư vấn). 
Giúp việc cho Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn (Thống đốc chủ tọa và 4 
ủy viên người Pháp, 2 ủy viên người Việt do Thống đốc chỉ định và 4 ủy viên 
dự khuyết Hội đồng hình sự (tức Hội đổng tư vấn thêm 2 quan toà, có quyền 
hạn đối với cả Campuchia và Lào). Ngoài ra còn có Phòng Thương mại thành 
lập từ năm 1868 và Phòng Canh nông thành lập từ năm 1897 gồm toàn người 
Pháp. Đây là tổ chức của “Côlông” (người Pháp sang làm ăn ở Đông Dương) 
lập nên. Hai phòng này được cử một nghị sĩ vào Nghị viện Pháp. 
Nam Kì được chia thành 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa. Cần 
Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ 
Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một Trà 
Vinh, Vĩnh Long. Có 2 thành phố: Sài Gòn là thành phố cấp I và Chợ Lớn là 
thành phố cấp II. 
Đứng đầu tỉnh là công sứ người Pháp. Tỉnh nào lớn có thêm phó công sứ giúp 
việc cho Chánh, Phó Công sứ có Sở Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh. 
Đứng đầu thành phố có Chánh, Phó Đốc lí với Tòa Đốc lí và Hội đồng thành 
phố (cho thành phố cấp I) hoặc Uỷ ban thành phố (cho thành phố cấp II) Tỉnh 
có một số trung tâm hành chính hoặc Sở Đại lí. Tính đến năm 1919, Nam Kì 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 có 64 trung tâm hành chính và Sở Đại lí. Đứng đầu các đơn vị này có Đốc 
phủ sứ, Tri phủ hay Tri huyện. Một số địa phương hoặc khu vực có tầm quan 
trọng đặc biệt về chính trị hoặc quân sự có Đại lí người Pháp, đại diện trực 
tiếp của công sứ cai trị. 
Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp, thực dân Pháp vẫn giữ 
hệ thống chính quyền phong kiến ở dưới làng xã, có xã trưởng, hương trưởng 
và Hội đồng kì hào. Nam giới có 2 loại: tráng đinh (có tài sản, phải nộp thuế) 
và bạch đinh (không có tài sản). 
Trung Kì là xứ bảo hộ, vẫn duy trì "triều đình nhà Nguyễn", nhưng vua An 
Nam không có "thực quyền". Giúp việc vua có Hội đồng Phụ chính cùng 
Viện Cơ mật trông coi về đường lối lãnh đạo quốc gia, Viện Đỗ sát kiểm soát 
hoạt động của quan lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản lí công việc 
của dòng họ nhà vua. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ Chủ tịch 
Hội đồng Bảo hộ Trung Kì. Sau khi ép Thành Thái ra đạo dụ ngày 27-9-
1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho Tòa Khâm sứ. Hội đồng Phụ chính, Hội 
đồng Thượng thư đều bãi bỏ. Có Hội đồng Cơ mật gồm 6 bộ (Lại, Hình, 
Binh, Hộ, Lễ, Học), nhưng mọi quyết định của Hội đồng này đều phải được 
Khâm sứ thông qua mới chuyển lên nhà vua. Khâm sứ có quyền chủ tọa cả 
Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ đều có một viên chức 
Pháp đại diện cho Khâm sứ nắm gọi là Hội lí. Các quan lại triều đình, từ 
chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm, triều đình Huế chỉ được bổ dụng sau 
khi Khâm sứ chuẩn y. Quan lại từ chánh tứ phẩm trở xuống do Khâm sứ bổ 
nhiệm. 
Khâm sứ có một Hội đồng giúp việc gồm một số viên chức người Pháp, một 
đại diện của Phòng Thương mại và Canh nông, hai đại diện của Viện Cơ mật. 
Việc xử án do một Hội đồng luận án chung cho cả Trung Kì và Bắc Kì đặt tại 
Hà Nội giải quyết. 
Trung Kì có 14 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, 
Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc, thành phố Đà Nẵng là “đất nhượng địa”. 
Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người Pháp, có cơ quan Toà Công sứ giúp 
việc Cũng có các bộ phận công tác khác như ở Nam Kì. Nhưng ở đây (và cả 
Bắc Kì) vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam triều, đứng đầu tỉnh 
là Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), án sát coi việc tư pháp, Bố 
chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc Đê đốc (tỉnh lớn) coi 
việc binh . 
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi), có cáo Tri phủ, Tri huyện, Tri châu 
thay mặt Công sứ và Tổng đốc (Tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc từng 
huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái. 
Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện với các làng, xã trực 
thuộc. Một phủ hay huyện có nhiều tổng (thường là dưới 10 tổng) do chánh, 
phó tổng cai quản. Mỗi tổng quản lí một số làng xã (thường là trên dưới 10 
làng xã). 
Xã và làng (thôn) là cấp cơ sở của chính quyền Nhà nước. Đứng đầu là lí 
trưởng, phó lí trưởng. Còn có Hội đồng kì hào, kì mục điều hành mọi công 
việc của làng xã. Chế độ này ở cả ba xứ Việt Nam gần giống nhau. Đume 
thấy rõ sự lợi hại của nó: “Duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức 
cũ khi mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mổi 
làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyển lợi 
địa phương .Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất 
có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của 
nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó 
rất thuận lợi cho công việc của chúng ta" . 
Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Phủ Thống sứ do Thống sứ người Pháp 
đứng đầu, có Hội đồng Bảo hộ giúp việc. Hội đống này có thể chuyển thành 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kì và Trung Kì. Còn có thêm hai Phòng 
Thương mại và Canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng được cử đại 
biểu vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí và 2 thành phố. 26 
tỉnh là Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải Dương, Hải 
Ninh, Hà Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào 
Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phúc Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn Tây, Sơn 
La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái. 
Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt một số khu vực 
của một số tỉnh để thành lập tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng Sơn, 
Yên Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đạo quan binh thứ 5 gồm Lai Châu và 
Thượng Lào. Những đạo quan binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, 
tiễu phỉ, đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của nhân dân trong vùng. 
Hệ thống chính quyền của Bắc Kì từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể giống như 
ở Trung Kì. 
Hầu hết các quan viên nắm quyền cai trị từ cấp xã trở lên đều thuộc giai cấp 
địa chủ phong kiến, câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai cho chúng, tiếp 
tục áp bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp làng xã, phủ huyện, đạo, châu. 
Còn từ cấp tỉnh , xứ và Liên bang Đông Dương thì quyền lực tập trung vào 
tay những quan chức người Pháp. Vua tôi nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn được 
hưởng một số phụ cấp lương bổng do thực dân Pháp chi trả. Số công chức 
người Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung ngày một tăng 
thêm và chiếm tỉ lệ cao nhất so với thuộc địa của các nước khác. Họ hưởng 
lương rất cao và hưởng một chế độ hưu trí đặc biệt, trở thành một lớp người 
sâu mọt đục rỗng ngân sách Đông Dương để làm giàu cho cá nhân. Năm 
1907, chỉ riêng Sở Thương chính (Douane) đã có tới 3341 nhân viên, tức là 
chiếm tỉ lệ 1 người trên số 5000 dân. 
Số viên chức người Pháp ở Đông Dương năm 1897 là 2860, năm 1902 là 
3778, năm 1906 là 4390, năm 1911 là 5683 người. 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
Vào những năm 20 của thế kỉ này, Đông Dương với 25 triệu dân, có tới 4700 
quan chức người Pháp, tương đương với số lượng quan chức người Anh ở ấn 
Độ, một xứ có 350 triệu dân. Tới những năm 30, số lượng đó tăng gấp 3 lần 
số công chức người Anh ở Ấn Độ 
Lương và phụ cấp lương của một Tổng đốc người Việt là 800 đồng Đông 
Dương tương ứng với 750 phơrăng (1 đồng Đông Dương bằng 2,5 phơrăng), 
bằng lương và phụ cấp lương của một viên thư kí tòa sứ hạng nhì người 
Pháp, hoặc chỉ bằng một phần ba lương và phụ cấp lương của Công sứ hạng 
nhì đầu tỉnh. Ngoài tiền lương, họ còn được hưởng những khoản phụ cấp lớn 
và những khoản cướp đoạt tài sản, xương máu của nhân dân Việt Nam. Một 
cựu nghị sĩ Pháp sau khi đi thăm Đông Dương về đã than phiền: “So với bọn 
viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương 
thiện”. 
Bên cạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất xuống tận cơ sở, ở mỗi xứ đều có 
các Nha là chi nhánh của các công sở trung ương, có nhân viên hoạt động tới 
tỉnh, huyện, xã. Các chi nhánh này tuy đặt bên cạnh chính quyền xứ, tỉnh, 
song lại thuộc hệ thống dọc chịu sự điều khiển của các công sở trung ương 
Hệ thống tòa án ở các xứ và tỉnh đều trực thuộc Tổng biện lí bên cạnh Toàn 
quyền. Cơ quan chính quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có toà án tỉnh, 
thành phố và các Tòa án tối cao mới có quyền xử án, xử theo luật của Pháp từ 
thời kì Napôlêông phối hợp với luật Gia Long, hoàn toàn không có sự hiểu 
biết đầy đủ về phong tục tập quán Việt Nam. Khi cần khủng bố nhân dân, đàn 
áp dập tắt các cuộc khởi nghĩa, các hoạt động chống đối chính quyền thuộc 
địa, chúng thiết lập một Hội đồng đề hình (Toà án đặc biệt) để xét xử. Hội 
đống này chủ yếu tìm cách làm thật nhiều án chém và án nặng, việc xét xử 
chỉ làm chiếu lệ. 
2. Bộ máy quân sự, cảnh sát, toà án và nhà tù 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 Đume mong muốn hoàn thành bình định sớm để "phòng thủ Đông Dương", 
mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân 
cận với Đông Dương". Tình hình quốc tế lúc này đang có chiều hướng căng 
thẳng.Thực dân Anh tăng cường lực lượng ở căn cứ Hương Cảng và 
Xingapo. Đế quốc Đức có mặt ở Viễn Đông. Quân đội Nhật xâm lược Trung 
Quốc và nhòm ngó Đông Dương. 
Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", 
dùng binh lính thuộc địa để bảo vệ thuộc địa, hoặc để lấn chiếm thuộc địa. Vì 
vậy, việc tăng cường lực lượng vũ trang, bắt lính người Việt là cấp bách . 
Ngày 7-7-1900, chúng ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa (troupes 
coloniales) bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ. 
Ở Việt Nam, lính cơ (milice) là lực lượng bổ sung cho quân đội thuộc địa. 
Hội đổng phòng thủ Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương làm Chủ tịch 
có quyền huy động quân đội, lập các đạo quan binh, tuyển mộ binh lính và 
phân bố lực lượng. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên 
Tổng chỉ huy người Pháp. Dưới quyền y có Tổng tham mưu trưởng và các 
viên chỉ huy bộ binh , hải quân, pháo binh. 
“Tính đến năm 1897, đội quân viễn chinh đã có: 
- 3 liên đội bộ binh gồm 8 đại đội. 
- 4 đại đội và 2 trung đội lê dương. 
Phân phối như sau: 10 đại đội ở Bắc Kì, 2 đại đội ở Nam Kì, 2 trung đội ở 
Trung Kì. 
Về quân lính bản xứ, con số cũng tăng nhiều: 
Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn 
 - 3 liên đội pháo thủ Bắc Kì có 13 đại đội, đóng ở Bắc Kì. 
- 1 liên đội pháo thủ Trung Kì có 3 đại đội đóng ở Nam Kì. 
Súng ống trang bị cho quân lính được tăng cường, có các binh chủng mới 
như pháo binh (bắt đầu từ 1899), kị binh (1900), công binh (1903), đội cầu, 
thông tin, vẽ bản đố... bổ sung thêm tướng tá, lấy binh lính bản xứ ngày một 
đông, tổ chức những đội quân dự trữ (1898), tăng cường lính da đen châu Phi 
(cuối 1900); lập phòng tuyển lính và dự trữ ở Hà Nội, Sài Gòn (1901). 
Lúc bấy giờ, dưới quyền Tổng chỉ huy quân đội Pháp đã có đến 3 Thiếu 
tướng, Tổng cục trưởng hậu cần, Giám đốc quân y, Đại tá chỉ huy pháo binh, 
Đại tá chỉ huy công binh. 
Về hải quân, có phân nhánh hạm đội Nam Kì và hải quân công xưởng Sài 
Gòn dưới quyền chỉ huy của một Đại tá hải quân; hải cảng Hồng Gai và 
Quảng Châu Loan do Trung tá hải quân chỉ huy, cả hai đều đặt dưới quyền 
một Thủy sư đô đốc chỉ huy tối cao hạm đội Viễn Đông, có chân trong Hội 
đồng phòng thủ Đông Dương 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dot_khai_thac_thuoc_dia_lan_thu_nhat_cua_thuc_dan_phap_1897_1914__6361.pdf dot_khai_thac_thuoc_dia_lan_thu_nhat_cua_thuc_dan_phap_1897_1914__6361.pdf