Trong suốt thời kỳđầu giai đoạn này, chủnghĩa tư bản(thông qua Chủnghĩa 
trọng thương) đã thay thếchếđộ phong kiếntrởthành hình thức tổchức kinh tế
chủchốt, ít nhất ởnửa phía tây Châu Âu. Sựmởrộng các biên giới thuộc địa dẫn 
tới một cuộc Cách mạng thương mại. Giai đoạn này đáng chú ý ởsựnổi lên của 
khoa họchiện đại và sựáp dụng các thành tựu khoa học vào cải tiến kỹthuật, dẫn 
tới cuộc Cách mạng công nghiệp. Sựkhai thác Thếgiới mớicủa Bán đảo Iberia
(Tây Ban Nha và BồĐào Nha, bắt đầu tư chuyến đi vềphía tây của Christopher 
Columbus nhằm tìm kiếm một con đường thương mại ngắn hơn tới Đông Ấnnăm 
1492, nhanh chóng gặp sựcạnh tranh của người Anhvà người Pháp
[38]
. Các hình 
thức thương mại và mởrộng thương mại hình thành nên các hình thức chính phủ, 
luật phápvà kinh tếmới cần thiết.
Cuộc cải cách đã làm tổn hại lớn tới sựthống nhất của Châu Âu. Không chỉcác 
quốc gia bịchia rẽkhỏi nhau mà cảgiữa phương hướng tôn giáo của họ, nhưng 
một sốnước còn bịchia rẽtừbên trong bởi các cuộc tranh giành tôn giáo, được 
ủng hộmạnh từcác kẻthù bên ngoài. Trong thếkỷ16 Phápđã trải qua tình trạng 
này với một loạt những cuộc xung đột được gọi là Các cuộc chiến tranh tôn giáo 
Pháp, chấm dứt với sựthắng lợi của Triều đại Bourbon. Anh Quốc tránh được 
trong một giai đoạn và xửlý được dưới thời Nữhoàng Elizabethđểxoa dịu Giáo 
phái Anh. Đa phần nước Đứchiện đại ngày nay được hình thành nên từnhiều 
quốc gia có chủquyền nhỏdưới hình thức ĐếchếLa Mã thần thánhlýthuyết. 
Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litvađáng chú ý ởthời điểm này vềsự
không quan tâm đến tôn giáovà nói chung miễn nhiễm với các cuộc tranh giành 
tôn giáo ởChâu Âu.
              
                                            
                                
            
 
            
                 68 trang
68 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Lịch sử châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
của Đế chế Ottoman. Cuối cùng, sự nổi lên của Đế chế Đức và Đế chế Áo-Hung 
bắt đầu một loạt sự kiện sẽ dẫn tới sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới lần thứ 
nhất năm 1914. 
[ ] Cách mạng công nghiệp 
Bài chi tiết: Cách mạng Công nghiệp 
Bầu trời đầy ống khói của thủ đô Luân Đôn năm 1870, của Gustave Doré 
Cách mạng Công nghiệp là một giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 khi những 
thay đổi lớn trong nông nghiệp, chế tạo, và vận tải đã đưa tới tác động sâu rộng 
trong các điều kiện kinh tế xã hội và văn hóa tại Anh Quốc và sau đó lan ra khắp 
Châu Âu và Bắc Mỹ và cuối cùng là cả thế giới, một quá trình tiếp tục như công 
nghiệp hóa. Ở cuối những năm 1700 nền kinh tế dựa trên lao động thủ công của 
Vương quốc Anh bắt đầu bị thay thế bởi nền kinh tế công nghiệp và chế tạo bằng 
máy móc. Nó khởi đầu với sự cơ khí hóa trong ngành công nghiệp dệt, sự phát 
triển của các kỹ thuật gia công thép và sự tăng cường sử dụng than tinh chế. Khi 
nó đã bắt đầu. Sự mở rộng thương nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi nhờ các 
kênh đào, đường xá được nâng cấp và đường sắt. Sự ra đời của động cơ hơi nước 
(chủ yếu sử dụng than) và máy móc cơ khí (chủ yếu trong ngành dệt) đã tạo cơ sở 
cho sự gia tăng mạnh trong năng suất chế tạo.[95] Sự phát triển của các dụng cụ 
máy bằng sắt hoàn toàn trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19 đã tạo điều kiện 
cho việc sản xuất thêm các máy móc chế tạo sử dụng trong các ngành công nghiệp 
khác. Các hiệu ứng của nó lan khắp Tây Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, cuối cùng 
ảnh hưởng tới toàn bộ thế giới. Ảnh hưởng của nó trong việc làm thay đổi xã hội 
cực kỳ to lớn.[96] 
Xem thêm: Động cơ hơi nước, Adam Smith, Jeremy Bentham, John Stuart 
Mill, Karl Marx, Lịch sử tư tưởng kinh tế, và Lịch sử vận tải đường sắt 
[ ] Cách mạng chính trị 
Bài chi tiết: Cách mạng Mỹ, Cách mạng Pháp, và Các cuộc chiến tranh 
Napoleon 
Phá ngục Bastille trong Cách mạng Pháp năm 1789 
Sự can thiệp của Pháp vào cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ đã khiến nước này 
suy sụp. Sau nhiều nỗ lực cải cách tài chính bất thành, Louis XVI được thuyết 
phục triệu tập États Généraux, một cơ quan đại diện quốc gia gồm ba đẳng cấp: 
tăng lữ, quý tộc và thường dân. Các thành viên của État Généraux nhóm họp tại 
Cung điện Versailles tháng 5 năm 1789, nhưng cuộc tranh cãi về hệ thống bầu cử 
sẽ áp dụng nhanh chóng đi vào ngõ cụt. Tới tháng 6, đẳng cấp thứ ba, với sự tham 
gia của các thành viên từ hai đẳng cấp kia, tự tuyên bố mình là một Quốc hội và 
đưa ra lời tuyên thệ sẽ không giải tán cho tới khi Pháp đã có một hiến pháp và tạo 
lập, vào tháng 7, Quốc hội lập hiến. Cùng thời điểm ấy người dân Paris nổi dậy, 
nổi tiếng nhất là vụ phá ngục Bastille ngày 14 tháng 7 năm 1789. 
Thời điểm ấy hội đồng muốn lập ra một chế độ quân chủ lập hiến, và trong hai 
năm sau đó đã thông qua nhiều đạo luật gồm cả Tuyên bố quyền con người và 
công dân, xóa bỏ chế độ phong kiến, và một sự thay đổi nền tảng trong quan hệ 
giữa Pháp và Giáo hội La Mã. Đầu tiên nhà vua ủng hộ những thay đổi đó và khá 
được lòng dân chúng, nhưng khi tình cảm chống hoàng gia gia tăng cùng với mối 
đe dọa ngoại xâm, nhà vua, đã bị tước quyền lực, quyết định bỏ trốn cùng gia đình. 
Ông bị phát hiện và bị đưa trở lại Paris. Ngày 12 tháng 1 năm 1793, bị kết tội phản 
bội, ông bị xử tử. 
Ngày 20 tháng 9 năm 1792 Quốc ước xóa bỏ chế độ quân chủ và tuyên bố Pháp là 
một nhà nước cộng hoà. Vì sự khẩn trương của nguy cơ chiến tranh Hội đồng 
quốc gia lập ra Ủy ban an ninh toàn quốc, do Maximilien Robespierre thuộc Câu 
lạc bộ Jacobin đứng đầu, để hoạt động như bộ máy hành pháp của đất nước. Dưới 
sự điều hành của Robespierre ủy ban đã đưa ra Thời kỳ khủng bố, với 40,000 
người bị hành quyết ở Paris, chủ yếu là quý tộc, và những người bị Tòa án cách 
mạng tuyên án, thường là với bằng chứng mơ hồ nhất. Ở những nơi khác trong 
nước, những cuộc nổi dậy phản cách mạng bị đàn áp dã man. Chế độ này bị lật đổ 
sau cuộc đảo chính 9 Thermidor (27 tháng 7 năm 1794) và Robespierre bị hành 
quyết. Chính quyền sau đó chấm dứt thời kỳ khủng bố và cắt giảm các chính sách 
cực đoan của Robespierre. 
Trận Waterloo, nơi Napoleon bị Quận công Wellington đánh bại năm 1815 
Napoleon Bonaparte là vị tướng thành công nhất của Pháp trong những cuộc chiến 
tranh cách mạng, ông đã chinh phục những vùng rộng lớn của Ý và buộc người Áo 
phải đàm phán hòa bình. Ông ta xâm lược Ai Cập, đánh bại quân Mamluk nhưng 
Hải quân Anh do Đô đốc Horatio Nelson thống lĩnh đại phá Hải quân Pháp trong 
trận vịnh Aboukir (1799), làm thất bại cuộc xâm lược Ai Cập của Napoléon.[97] 
Vào năm 1799, ông quay trở về từ Ai Cập và vào ngày 18 Brumaire (9 tháng 11) 
lật đổ chính phủ, thay thế nó bằng chế độ Tổng tài, trong đó ông là Đệ nhất Tổng 
tài. Vào năm 1801, đồng minh của ông ta là Hải quân Đan Mạch bị Hải quân Anh 
của Nelson đập tan tác trong trận Copenhagen.[98] Ngày 2 tháng 12 năm 1804, sau 
một âm mưu ám sát bất thành, ông tự tuyên bố mình là Hoàng đế. Năm 1805, 
Napoleon dự định xâm lược Anh, nhưng một liên minh mới giữa Anh và Nga cùng 
Áo (Liên minh thứ ba), đã buộc ông phải hướng sự chú ý vào trong lục địa, tuy 
cùng lúc ấy không thể đánh lừa hạm đội hùng mạnh của Anh rời khỏi English 
Channel, chấm dứt trong một chiến thắng quyết định của Anh tại Trận Trafalgar 
ngày 21 tháng 10 đặt dấu chấm hết cho những hy vọng xâm lược Anh của 
Napoléon. Nelson hy sinh trong trận này, trở thành anh hùng dân tộc của nước 
Anh.[99] Vào ngày 2 tháng 12 năm 1805, Napoleon đánh bại liên quân Áo-Nga có 
số lượng đông đảo hơn tại Austerlitz, buộc Áo rút lui khỏi liên minh (xem Hiệp 
ước Pressburg) và giải tán Đế chế La Mã thần thánh. Năm 1806, một Liên minh 
thứ tư được thiết lập, ngày 14 tháng 10 Napoleon đánh bại Quân đội Phổ trong 
Trận Jena-Auerstedt, nhưng Quân đội Phổ giữ được pháo đài Kolberg.[100] 
Napoléon còn đi qua Đức và đánh bại quân Nga ngày 14 tháng 7 năm 1807 trong 
trận đánh tại Friedland, Hiệp ước Tilsit phân chia Châu Âu giữa Pháp và Nga và 
tạo ra Công quốc Warszawa. 
Ngày 12 tháng 6 năm 1812 Napoleon xâm lược Nga với một Grande Armée (Đại 
quân) gần 700,000 người. Sau khi có được những thắng lợi tại Smolensk và 
Borodino Napoleon chiếm Mát-xcơ-va, nhưng chỉ là một thành phố đã bị quân đội 
Nga rút lui đốt cháy, và phải đối mặt với bệnh dịch và đói khát. Chỉ 20,000 quân 
sống sót sau chiến dịch. Tới năm 1813, Nữ thần vận may đã rời bỏ Napoleon, sau 
khi bị đội quân bảy nước đánh bại tại Trận Leipzig tháng 10 năm 1813. Ông bị 
buộc thoái vị sau Chiến dịch sáu ngày và Paris bị chiếm đóng, theo Hiệp ước 
Fontainebleau Napoleon bị trục xuất tới đảo Elba. Ông quay về Pháp ngày 1 tháng 
3 năm 1815 (xem Một trăm ngày), tái lập một quân đội, nhưng bị lực lượng Anh 
và Phổ đánh bại hoàn toàn tại Trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815. 
[ ] Sự trỗi dậy của các quốc gia 
Bài chi tiết: Thống nhất nước Ý, Chiến tranh Pháp -Phổ, Chiến tranh 
Crimea, và Các cuộc cách mạng 1848 
Mừng thắng lợi Các cuộc cách mạng 1848 tại Berlin 
Sau khi đánh bại cách mạng Pháp, các cường quốc khác tìm cách tại lập tình hình 
như trước năm 1789. Vào năm 1815, tại Hội nghị Viên, các cường quốc lớn của 
Châu Âu tìm cách thiết lập một sự cân bằng quyền lực hòa bình giữa các đế chế 
sau các cuộc chiến tranh Napoleon (dù có sự xảy ra của các phong trào cách mạng 
trong nước) theo hệ thống Metternich. Tuy nhiên, những nỗ lực của họ không thể 
ngăn cản sự lan tràn của các phong trào cách mạng: tầng lớp trung lưu đã bị ảnh 
hưởng sâu sắc từ các ý tưởng dân chủ của cuộc cách mạng Pháp, cuộc Cách mạng 
công nghiệp đã mang lại những thay đổi kinh tế và xã hội quan trọng, các tầng lớp 
thấp bắt đầu bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng chủ nghĩa xã hội, cộng sản và vô chính 
phủ (đặc biệt là những ý tưởng được Karl Marx đưa ra trong Bản tuyên ngôn Cộng 
sản), và mong muốn của tầng lớp tư bản mới là Chủ nghĩa tự do. Sự bất ổn càng 
tăng thêm từ sự thành lập của nhiều phong trào quốc gia (tại Đức, Ý, Ba Lan, 
Hungary, v.v...), tìm cách thống nhất quốc gia và/hay giải phóng khỏi sự cai trị 
nước ngoài. Như một hậu quả của nó, giai đoạn từ 1815 tới 1871 chứng kiến nhiều 
nỗ lực cách mạng và các cuộc chiến tranh giành độc lập. Napoleon III, cháu của 
Napoleon I, quay trở về từ nơi bị trục xuất là Anh Quốc năm 1848 và được bầu 
vào nghị viện Pháp, và sau đó là "Hoàng thân Tổng thống" trong một cuộc đảo 
chính tự phong mình làm Hoàng đế, một hành động sau này đã được đa số cử tri 
Pháp phê chuẩn. Ông đã giúp đỡ cho sự thống nhất của Ý khi chiến đấu chống lại 
Đế chế Ao và trong cuộc Chiến tranh Crimea với Anh và Đế chế Ottoman chống 
lại Nga. Đế chế của ông sụp đổ sau một thất bại nặng của Pháp trước người Phổ 
khiến ông bị bắt giữ. Sau đó Pháp trở thành một nhà nước cộng hòa yếu ớt từ chối 
đàm phán và bị Phổ đánh bại sau ít tháng. Tại Versailles, Vua Wilhelm I của Phổ 
tuyên bố trở thành Hoàng đế Đức, và nhà nước Đức hiện đại đã ra đời. Ngay cả 
khi các phong trào cách mạng thường xuyên bị đánh bại, đa số các nước Châu Âu 
đã trở thành những quốc gia lập hiến (chứ không phải là chuyên chế) ở thời điểm 
năm 1871, và Đức cùng Ý đã phát triển trở thành các quốc gia. Thế kỷ 19 cũng 
chứng kiến sự xuất hiện của Đế chế Anh như cường quốc số một thế giới phần lớn 
nhờ cuộc Cách mạng Công nghiệp và thắng lợi sau những cuộc chiến tranh 
Napoleon. Hoàng đế Friedrich III lên thay vua cha Wilhelm I, ông là một vị vua 
mạnh mẽ, gắn liền với phong trào tự do Đức thời đó. Thế nhưng ông mất sớm vào 
năm 1888. [101] 
[ ] Các đế chế 
Bài chi tiết: Các đế chế thuộc địa 
Xem thêm thông tin: Lịch sử Chủ nghĩa thực dân, Đế chế Ottoman, Đế chế 
Habsburg, Đế chế Nga, Đế chế thuộc địa Pháp, Đế chế Anh, và Đế chế Hà 
Lan 
Cuộc Triển lãm Thế giới tại Paris năm 1884 
Hòa bình chỉ kéo dài tới khi Đế chế Ottoman đã suy tàn tới mức trở thành miếng 
mồi cho các cường quốc khác. (Xem Lịch sử vùng Balkan.) Nó gây ra cuộc Chiến 
tranh Crimea năm 1854 và bắt đầu một giai đoạn của những cuộc xung đột nhỏ 
liên tục giữa các đế chế Châu Âu đang mở rộng ra toàn thế giới và đặt cơ sở cho 
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nó thay đổi lần thứ ba với sự chấm dứt của 
nhiều cuộc chiến khiến Vương quốc Sardinia và Vương quốc Phổ bị sáp nhập trở 
thành một phần của Ý và Đức, làm thay đổi mạnh cán cân quyền lực ở Châu Âu. 
Từ năm 1870, triều đình Bismarck đã đẩy Châu Âu vào một tình thế nghiêm trọng. 
Đức dần tái lập các quan hệ, tìm kiếm các liên minh với Nga và Anh, để điều 
khiển quyền lực ngày càng tăng của Đức. Theo cách này, hai phía đối lập hình 
thành nên ở Châu Âu, cải thiện các lực lượng quân đội và đồng minh theo thời 
gian. 
[ ] Từ năm 1914 tới 1991 
Xem thêm: Thế kỷ 20 
Hầm hào trở thành một trong những biểu tượng mạnh nhất của Chiến tranh thế 
giới lần thứ nhất. 
"Thế kỷ hai mươi ngắn", từ năm 1914 tới năm 1991, chứng kiến cuộc Chiến tranh 
thế giới lần thứ nhất, Chiến tranh thế giới lần thứ hai và Chiến tranh Lạnh, với sự 
trỗi dậy và sụp đổ của Phát xít Đức và của Liên bang Xô viết. Các sự kiện thảm 
họa đánh dấu sự chấm dứt của các đế chế thuộc địa và dẫn tới sự mở rộng của quá 
trình giải thực. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1989 tới 1991 khiến Hoa Kỳ 
trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới và dẫn tới sự sụp đổ của Bức màn sắt, 
sự thống nhất nước Đức và một quá trình hội nhập Châu Âu đang diễn ra ngày 
càng nhanh chóng. 
[ ] Khải huyền 
Bài chi tiết: Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Cách mạng Nga (1917), 
Hiệp ước Versailles, Đại giảm phát, và Chiến tranh thế giới lần thứ hai 
Sau một sự hòa bình khá mong manh trong hầu hết thế kỷ 19, sự đối đầu giữa các 
cường quốc Châu Âu nổ ra năm 1914, khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bắt 
đầu. Hơn 60 triệu binh sĩ Châu Âu được huy động trong giai đoạn 1914 – 
1918.[102] Một bên là Đức, Áo-Hung, Đế chế Ottoman và Bulgaria (Liên minh 
trung tâm/Liên minh ba nước), phía bên kia là Serbia và Đồng minh ba nước - liên 
minh lỏng lẻo gồm Pháp, Anh Quốc và Nga, với Ý gia nhập năm 1915 và Hoa Kỳ 
năm 1917. Dù có sự rút lui của Nga năm 1917 (cuộc chiến là một trong những 
nguyên nhân chính của cuộc Cách mạng Nga, dãn tới sự thành lập nhà nước Liên 
bang Xô viết), Liên minh cuối cùng chấm dứt vào mùa hè năm 1918. 
Theo Hiệp ước Versailles (1919) các nước thắng trận đặt ra các điều kiện khá khắt 
khe với Đức và công nhận các nước mới như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Áo, 
Nam Tư, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva) được thành lập ở Trung Âu bên ngoài 
các đế chế Đức, Áo-Hung, Nga không còn tồn tại nữa, được cho là căn bản của sự 
tự quyết dân tộc. Đa số các quốc gia này tham gia vào các cuộc chiến tranh địa 
phương, cuộc chiến lớn nhất là Chiến tranh Ba Lan-Xô viết (1919-1921). Trong 
những thập kỷ sau đó, nỗi sợ hãi Chủ nghĩa Cộng sản và Đại giảm phát giai đoạn 
1929-1933 dẫn tới sự trỗi dậy của các chính phủ quốc gia cực đoan – thỉnh thoảng 
được liên minh lỏng lẻo dưới tên gọi chủ nghĩa phát xít – tại Ý (1922), Đức (1933), 
Tây Ban Nha (sau một cuộc nội chiến chấm dứt năm 1939) và các quốc gia khác 
như Hungary. 
"Hòa bình, Bánh mì và Ruộng đất" là khẩu hiệu cách mạng của đảng Bolshevik và 
Lenin với người dân Nga, đã kiệt lực vì chiến tranh 
Sau khi liên minh với nước Ý của Mussolini trong "Hiệp ước Thép" và ký một 
hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau với Liên bang Xô viết, và một quá trình xây 
dựng quân đội ở cuối những năm 1930 độc tài người Đức Adolf Hitler bắt đầu 
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai ngày 1 tháng 9 năm 1939 tấn công Ba Lan. 
Sau những thắng lợi ban đầu (chủ yếu chinh phục phía tây Ba Lan, đa phần 
Scandinavia, Pháp và Balkan trước năm 1941) phe Trục bắt đầu mở rộng năm 
1941. Tư tưởng thù địch của Hitler là những người Cộng sản tại Nga nhưng bởi 
nước Đức không thể đánh bại Anh Quốc và Ý đã thất bại ở Bắc Phi và Địa Trung 
Hải lực lượng phe trục bị chia rẽ giữa các đơn vị đồn trú ở Tây Âu và Scandinavia 
và cả lực lượng tấn công Châu Phi. Vì thế, cuộc tấn công vào Liên bang Xô viết 
(nước đã cùng Đức phân chia Trung Âu năm 1939-1940) không diễn ra với sức 
mạnh lớn nhất. Dù có những thắng lợi ban đầu, quân đội Đức đã bị chặn lại trước 
thủ đô Mát-xcơ-va tháng 12 năm 1941. 
Năm sau đó, vận mệnh đổi chiều và người Đức bắt đầu phải chịu một loạt thất bại, 
ví dụ như cuộc phong toả Stalingrad và tại Kursk. Trong lúc ấy, Đế quốc Nhật Bản 
(đồng minh với Đức và Ý từ tháng 9 năm 1940) tấn công Anh ở Đông Nam Á và 
Hoa Kỳ tại Hawaii ngày 7 tháng 12 năm 1941; Sau đó Đức mở rộng toàn bộ phạm 
vi cuộc chiến khi tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cuộc chiến giữa phe Trục (Đức, Ý , và 
Nhật Bản) cùng Đồng Minh (Đế chế Anh, Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ). Đồng 
minh giành thắng lợi ở Bắc Phi, tiến công nước Ý năm 1943, và tiến vào nước 
Pháp bị chiếm đóng năm 1944. Mùa xuân năm 1945 chính nước Đức cũng bị tấn 
công từ hướng Đông bởi Liên xô và từ hướng tây bởi các lực lượng đồng minh 
khác; Hitler tự sát và Đức đầu hàng đầu tháng 5 chấm dứt chiến tranh ở Châu Âu. 
Giai đoạn này được ghi dấu bởi sự diệt chủng được công nghiệp hóa và kế hoạch 
hoá. Đức bắt đầu tàn sát có hệ thống hơn 11 triệu người, gồm đa số người Do Thái 
ở Châu Âu và người Gypsies cũng như hàng triệu người Ba Lan và người Slav Xô 
viết. Hệ thống lao động cưỡng bức,[cần dẫn nguồn] trục xuất và nạn đói tại Ukraine ở 
Liên Xô cũng gây ra mức độ thiệt hại nhân mạng tương tự.[cần dẫn nguồn] Trong và 
sau cuộc chiến hàng triệu thường dân đã bị ảnh hưởng bởi các cuộc di cư bắt buộc. 
[cần dẫn nguồn] 
[ ] Chiến tranh Lạnh 
Bài chi tiết: Chiến tranh Lạnh, NATO, Kế hoạch Marshall, và Cộng đồng 
Kinh tế châu Âu 
Công nhân xây dựng Đông Đức đang xây Bức tường Berlin, 20 tháng 11 năm 
1961 
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đặc biệt là Chiến tranh thế giới lần thứ 
hai đã chấm dứt vị trí thống trị của Tây Âu. Bản đồ Châu Âu được vẽ và phân chia 
lại trong Hội nghị Yalta khi nó trở thành vùng trung tâm chú ý của cuộc Chiến 
tranh Lạnh giữa hai khối, các quốc gia phương Tây và khối Đông Âu. Hoa Kỳ và 
Tây Âu (Anh Quốc, Pháp, Ý, Hà Lan, Tây Đức, v.v...) thành lập liên minh NATO 
như một sự phòng vệ chống lại một cuộc xâm lược có thể diễn ra từ Liên bang Xô 
Viết. Sau này, Liên bang Xô viết và Đông Âu (Bulgaria, Tiệp Khắc, Cộng hòa 
Dân chủ Đức, Hungary, Ba Lan, và Romania) thành lập Khối hiệp ước Warszawa 
như một sự phòng vệ chống lại một cuộc xâm lược có thể diễn ra từ Hoa Kỳ. 
Trong lúc ấy, Tây Âu bắt đầu một quá trình hội nhập kinh tế và chính trị chậm rãi, 
với mong ước thống nhất Châu Âu và ngăn chặn một cuộc chiến tranh khác. Quá 
trình này cuối cùng dẫn tới sự phát triển của các tổ chức như Liên minh châu Âu 
và Hội đồng châu Âu. Phong trào Solidarność những năm 1980 với sự suy yếu của 
chính quyền Xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan. Lãnh tụ Liên Xô Mikhail Gorbachev 
khởi xướng perestroika và glasnost, làm suy yếu ảnh hưởng Liên bang Xô Viết ở 
Đông Âu. Các chính phủ được Liên Xô bảo trợ sụp đổ, và tới năm 1990 Cộng hòa 
Liên bang Đức đã sáp nhập Cộng hòa Dân chủ Đức. Năm 1991 tới lượt chính Liên 
bang Xô Viết sụp đổ, phân chia thành mười lăm nước cộng hòa, Nga giữ ghế của 
Liên bang Xô Viết tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Cuộc tan rã bạo lực nhất 
diễn ra tại Nam Tư, ở vùng Balkan. Bốn nước (Slovenia, Croatia, Bosnia và 
Herzegovina và Macedonia) trong sáu nước cộng hòa thuộc Nam Tư tuyên bố độc 
lập và hầu hết trong số họ đều phải trải qua các cuộc chiến tranh đẫm máu, ở một 
số nơi kéo dài tới tận năm 1995. Năm 2006 Montenegro ly khai và trở thành một 
quốc gia độc lập, tiếp theo đó là Kosovo, trước kia là một tỉnh tự trị của Serbia, 
năm 2008. Trong giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh, NATO và EU dần thu nạp hầu 
hết các quốc gia thành viên cũ của Khối hiệp ước Warszawa. 
[ ] Lịch sử gần đây 
Xem thêm thông tin: Lịch sử Liên minh Châu Âu, Hội nhập Châu 
Âu, và Thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh 
Cờ Châu Âu 
Năm 1992, Hiệp ước về Liên minh Châu Âu được ký kết giữa các thành viên Liên 
minh Châu Âu (EU). Sự kiện này đã biến 'Dự án Châu Âu' từ Cộng đồng kinh tế 
với một số định hướng chính trị, trở thành Liên minh ở mức độ hợp tác sâu hơn. 
Năm 1985 Thỏa thuận Schengen đã tạo ra các biên giới mở bỏ kiểm soát hộ chiếu 
giữa các quốc gia thành viên.[103] 
Một đồng tiền tệ chung cho hầu hết quốc gia Châu Âu, đồng euro, được thiết lập 
về mặt điện tử năm 1999, chính thức liên kết đồng tiền của mỗi quốc gia thành 
viên. Đồng tiền tệ mới được đưa vào lưu hành năm 2002 và các đồng tiền tệ cũ bị 
bãi bỏ. Chỉ ba nước trong số 15 quốc gia thành viên khi ấy quyết định không sử 
dụng đồng euro (Anh Quốc, Đan Mạch và Thụy Điển). Năm 2004 EU tiến hành 
mở rộng về phía tây, kết nạp 10 quốc gia thành viên mới (tám trong số đó là các 
quốc gia cộng sản trước kia). Hai nước nữa gia nhập năm 2007, biến nó thành liên 
minh của 27 quốc gia. 
Một hiệp ước thành lập một hiến pháp cho Liên minh Châu Âu được ký kết tại Rô-
ma năm 2004, dự định thay thế toàn bộ hiệp ước trước đó bằng một tài liệu duy 
nhất. Tuy nhiên, nó chưa bao giờ hoàn thành giai đoạn phê chuẩn sau khi bị các cử 
tri Pháp và Hà Lan bác bỏ trong cuộc trưng cầu dân ý. Năm 2007, các quốc gia 
thành viên đồng ý thay thế đề xuất này bằng một Hiệp ước Cải cách mới, sẽ đổi 
chứ không thay thế các hiệp ước đang có. Hiệp ước này được ký ngày 13 tháng 12 
năm 2007, và sẽ có hiệu lực vào tháng 1 năm 2009 nếu được phê chuẩn trước thời 
hạn đó. Hiệp ước này sẽ khiến Liên minh Châu Âu lần đầu tiên có một Chủ tịch và 
một Bộ trưởng ngoại giao thường trực. 
Các nước vùng Balkan là một phần của Châu Âu dường như sẽ là các quốc gia 
tiếp theo gia nhập Liên minh Châu Âu, với Croatia được hy vọng sẽ là thành viên 
trước năm 2010. 
[ ] Xem thêm 
 Lịch sử văn minh phương Tây 
[ ] Tài liệu tham khảo 
1. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 131 
2. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 98-102. 
3. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 151-156. 
4. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 192 
5. ^ D. H. Lawrence, Philip Crumpton, Movements in European History, 
trang 24 
6. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 210-241. 
7. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 244-253. 
8. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 301-306. 
9. ^ Norman Davies, Europe: a history, Oxford University Press, 1996, ISBN 
0-19-820171-0. Trang 243. 
10. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 408 
11. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 568 
12. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 485 
13. ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 222-
224. 
14. ^ Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, 
trang 1 
15. ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 649-653. 
16. ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 313-
319. 
17. ^ “Socrates”. 1911 Encyclopaedia Britannica (8 tháng 10 năm 1911). Truy 
cập 4 tháng 3 năm 2008. 
18. ^ Rosalind Murray, The Greeks, A. & C. Black, 1931. Trang 43. 
19. ^ Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security 
Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, 
Georgetown University Press, 2009, trang 11. ISBN 1-58901-258-5. 
20. ^ a b c Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and 
Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, 
trang 13 
21. ^ Jay Luvaas, Napoleon on the Art of War, Simon and Schuster, 2001, 
ISBN 0-7432-1684-9. Trang 39. 
22. ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, Da Capo Press, 1999, 
ISBN 0-306-80908-7. Trang 211. 
23. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 309 
24. ^ Bowersock, "The Vanishing Paradigm of the Fall of Rome" Bulletin of 
the American Academy of Arts and Sciences 49.8 (May 1996:29-43) p. 31. 
25. ^ Hunt, Lynn; Thomas R. Martin, Barbara H. Rosenwein, R. Po-chia Hsia, 
Bonnie G. Smith (2001). The Making of the West, Peoples and Cultures, 
Volume A: To 1500. Bedford / St. Martins. 256. ISBN 0-312-18365-8. 
OCLC 229955165 45837131. 
26. ^ history of Europe:: The Middle Ages – Britannica Online Encyclopedia 
27. ^ Các sự kiện được dùng để đánh dấu sự khởi đầu giai đoạn gồm sự cướp 
phá thành Rô-ma của người Goths (410), sự phế truất vị Hoàng đế Tây La 
Mã cuối cùng (476), Trận Tolbiac (496) và cuộc Chiến tranh Gothic (535–
552). Các sự kiện đặc biệt đánh dấu sự kết thúc của nó gồm sự thành lập Đế 
quốc La Mã Thần thánh bởi Otto I Đại đế (962), Sự phân ly Vĩ đại (1054) 
và cuộc Chinh phục Norman Anh (1066). 
28. ^ Fletcher, Banister, "Sir Banister Fletcher's A History of Architecture", 
Architectural Press; 20 edition (11 September 1996), ISBN-13: 978-
0750622677, pp 172 
29. ^ The History of the Bubonic Plague 
30. ^ Scientists Identify Genes Critical to Transmission of Bubonic Plague 
31. ^ An Empire's Epidemic 
32. ^ Justinian's Flea 
33. ^ The Great Arab Conquests 
34. ^ The Destruction of Kiev 
35. ^ Cantor, p. 480. 
36. ^ a b c d e f Norman Davies, Europe: a history, trang 560 
37. ^ Conquest in the Americas 
38. ^ và kém thành công hơn là người Thụy Điển và Hà Lan. 
39. ^ Thirty Years' War, Encyclopædia Britannica 
40. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 554 
41. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 564 
42. ^ Germany - The Thirty Years' War - The Peace of Westphalia 
43. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 629 
44. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 1284 
45. ^ Christopher Duffy, The wild goose and the eagle: a life of Marshal von 
Browne, 1705-1757, Chatto & Windus, 1964, trang 13 
46. ^ Christopher Duffy, Russia's military way to the West: origins and nature 
of Russian military power, 1700-1800, Routledge & Kegan Paul, 1981. 
Trang 53 
47. ^ a b Norman Davies, Europe: a history, trang 647 
48. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 656 
49. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 640 
50. ^ Gerhard Ritter, The Sword and the Scepter: The Prussian tradition, 1740-
1890, University of Miami Press, 1969. Trang 25. 
51. ^ a b Norman Davies, Europe: a history, trang 649 
52. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, Seeley, Service, 1972, 
ISBN 0-85422-077-1. 
53. ^ Angus Konstam, Poltava 1709: Russia Comes of Age, Osprey Publishing, 
1994. ISBN 1-85532-416-4. 
54. ^ Angus Konstam, Poltava 1709: Russia Comes of Age, Bìa sau 
55. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great : a historical profile, trang 139 
56. ^ Angus Konstam, Poltava 1709: Russia Comes of Age, trang 88 
57. ^ Angus Konstam, Poltava 1709: Russia Comes of Age, trang I 
58. ^ William J. Duiker, Jackson J. Spielvogel, World History, Tập 1, Cengage 
Learning, 2009. ISBN 0-495-56902-X. 
59. ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 41 
60. ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, 
Routledge, 1987. ISBN 0-7102-1024-8. 
61. ^ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Frederick the Great of Prussia, 
F. Watts, 1969.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lich_su_57__6904.pdf lich_su_57__6904.pdf