Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng nghề ở Hải Phòng

Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt đón đầu, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác. Con đường mà chúng ta đã xác định là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.

Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế- văn hoá xã hội của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề truyền thống, với trung tâm cụm xã có hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp. Theo đường lối chiến lược đó các làng nghề là một thực thể kinh tế ở nông thôn, là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại, là một bộ phận quan trọng ttrong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn. Việc đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề nói riêng và các ngành nghề nông thôn nói chung có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá đói giảm nghèo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp dịch vụ.Tuy nhiên sự phát triển của làng nghề, do những yếu tố khách quan và chủ quan tác động, đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Có nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh, có những ảnh hưởng tích cực đến kinh tế nông thôn trong khu vực và có những ảnh hưởng tốt đến cả những khu vực lân cận, tạo nên các cụm làng nghề và hình thành sự phân công chuyên môn hoá. Lại có những làng nghề gặp nhiều khó khăn thậm chí bị mai một. Vì vậy, việc thúc đẩy và khôi phục phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, là việc làm phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước.

Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, diện tích đất nông nghiệp không nhiều, hơn nữa lại cũng không có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Do đó để phát triển kinh tế khu vực nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thành phố thì phát triển ngành nghề nông thôn là việc rất quan trọng và cần thiết. Thành phố Hải Phòng cũng đã có định hướng và nhiều văn bản chi tiết hướng dẫn, đôn đốc tạo điều kiện cho các ngành nghề nông thôn phát triển. Nhờ đó, đến nay làng nghề Hải Phòng cũng đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, để phát triển làng nghề theo hệ thống một cách có khoa học và đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội lâu dài, thì Hải Phòng cần phải có một hệ thống giải pháp phù hợp với điều kiện hiện nay hơn nữa.

Dựa vào việc phân tích thực trạng kinh tế làng nghề của Hải Phòng, đánh giá những lợi thế và những khó khăn của làng nghề hiện nay chuyên đề nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển và khôi phục kinh tế làng nghề ở Hải Phòng, từ đó góp phần phát triển kinh tế nông thôn Hải Phòng.

 

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng nghề ở Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt đón đầu, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác. Con đường mà chúng ta đã xác định là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế- văn hoá xã hội của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề truyền thống, với trung tâm cụm xã có hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp. Theo đường lối chiến lược đó các làng nghề là một thực thể kinh tế ở nông thôn, là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại, là một bộ phận quan trọng ttrong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn. Việc đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề nói riêng và các ngành nghề nông thôn nói chung có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá đói giảm nghèo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp dịch vụ...Tuy nhiên sự phát triển của làng nghề, do những yếu tố khách quan và chủ quan tác động, đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Có nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh, có những ảnh hưởng tích cực đến kinh tế nông thôn trong khu vực và có những ảnh hưởng tốt đến cả những khu vực lân cận, tạo nên các cụm làng nghề và hình thành sự phân công chuyên môn hoá. Lại có những làng nghề gặp nhiều khó khăn thậm chí bị mai một. Vì vậy, việc thúc đẩy và khôi phục phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, là việc làm phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước. Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, diện tích đất nông nghiệp không nhiều, hơn nữa lại cũng không có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Do đó để phát triển kinh tế khu vực nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thành phố thì phát triển ngành nghề nông thôn là việc rất quan trọng và cần thiết. Thành phố Hải Phòng cũng đã có định hướng và nhiều văn bản chi tiết hướng dẫn, đôn đốc tạo điều kiện cho các ngành nghề nông thôn phát triển. Nhờ đó, đến nay làng nghề Hải Phòng cũng đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, để phát triển làng nghề theo hệ thống một cách có khoa học và đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội lâu dài, thì Hải Phòng cần phải có một hệ thống giải pháp phù hợp với điều kiện hiện nay hơn nữa. Dựa vào việc phân tích thực trạng kinh tế làng nghề của Hải Phòng, đánh giá những lợi thế và những khó khăn của làng nghề hiện nay chuyên đề nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển và khôi phục kinh tế làng nghề ở Hải Phòng, từ đó góp phần phát triển kinh tế nông thôn Hải Phòng. Phần I Một số vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề và phát triển kinh tế làng nghề I. Sự hình thành và phát triển của làng nghề: 1. Khái niệm chung về làng nghề : Để tìm hiểu khái niệm làng nghề chúng ta cần chú ý đến hai yếu tố cấu tạo nên làng nghề đó là làng và nghề. Làng là khu vực địa lý, không gian lãnh thổ nhất định mà tại đó tồn tại những tập hợp cư dân cùng sinh sống, sản xuất và giữa họ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nghề là khái niệm chỉ các hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp diện ra tại khu vực nông thôn mà lao động trong các nghề này thường được tách ra từ nông nghiệp với mục tiêu tăng thu nhập. Hiện nay vẫn chưa có những đánh giá tiêu chuẩn xác định làng nghề thống nhất. Đối với từng địa phương và từng đợt nghiên cứu khác nhau có thể có những tiêu chí khác nhau để xác định làng nghề. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, làng nghề nông thôn của Hải Phòng được xác định theo quy định tạm thời của Cục Chế biến nông lâm sản và Ngành nghề nông thôn ( trực thuộc Bộ NN & PTNT), là đơn vị được Bộ giao nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Theo đó, làng nghề là làng (thôn, ấp) ở nông thôn có ngành nghề phi nông nghiệp phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập quan trọng của người dân trong làng. Về mặt định lượng, làng nghề là làng có từ 35- 40% số hộ trở lên có tham gia hoạt động ngành nghề ( thu nhập từ làng nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ) đồng thời giá trị sản lượng của ngành nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Nghề truyền thống là các nghề thủ công nghiệp có từ trước thời Pháp thuộc đến nay (từ khi hình thành đến nay khoảng hơn 100 năm trở lên). Các nghề này được truyền từ đời này sang đời khác, được bảo tồn và hoàn thiện qua nhiều thế hệ làm nghề. Các nghề truyền thống cũng bao gồm cả những nghề có được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ những công nghệ truyền thống. Từ hai khái niệm trên ta có thể thấy được, làng nghề truyền thống là các làng nghề đạt được đủ hai tiêu chí như trên. Nghĩa là các làng nghề đã hình thành lâu đời với tuổi thọ hơn 100 năm tồn tại cho đến nay và các làng nghề này thu hút được một lượng lớn lao động trong làng (35-40% số hộ ) có thu nhập từ làng nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập cuả các hộ; giá trị sản lượng của ngành nghề chiếm đến hơn 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. ở nước ta cũng có rất nhiều các làng nghề truyền thống hoạt động hiệu quả và tồn tại được cho đến ngày nay như làng lụa Vạn Phúc, làng gốm Bát Tràng... Tuy nhiên trước những đổi thay của nền kinh tế thị trường, một số lượng lớn các làng nghề truyền thống bị mai một và rơi vào dĩ vãng. Do đó, đối với những làng nghề đã có từng có 50 hộ hoặc có 1/3 tổng số hộ cùng làm một nghề truyền thống cũng có thể coi như một làng nghề truyền thống. Bên cạnh khái niệm về làng nghề truyền thống còn có khái niệm về làng nghề mới. Đó là những làng nghề mới được hình thành do phát triển từ những làng nghề truyền thống hoặc tiếp thu những nghề mới phục vụ đời sống sản xuất và sinh hoạt trong khu vực. Sự xuất hiện và phát triển của các làng nghề này cũng mang những ý nghĩa tích cực đối với đời sống khu vực kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế thành phố nói chung. Khi nói đến một làng nghề, ta không chỉ chú ý đến các mặt đơn lẻ mà phải chú ý đến nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là phải quan tâm tới tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó. Trong đó, yếu tố quyết định là sản phẩm và kỹ thuật sản xuất. Làng nghề là một trung tâm sản xuất hàng hoá, nơi quy tụ nhiều nghệ nhân, thợ giỏi và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính chất truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có những ước chế gia tộc và xã hội ( đối với một số làng nghề truyền thống). Sản phẩm của làng nghề làm ra chẳng những có tính thiết dụng mà hơn thế, một số sản phẩm còn là loại hàng hoá tinh xảo, nghệ thuật, mang nhiều giá trị văn hoá và tinh thần. Vai trò, tác động của làng nghề đối với đời sống kinh tế- văn hoá- xã hội là rất tích quan trọng, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Ngay từ những khái niệm nêu trên ta cũng có thể thấy phần nào ý nghĩa của làng nghề trong việc giải quyết nhiều vấn đề đặt ra đối với công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn như tạo việc làm, tăng thu nhập, đa dạng hoá sản phẩm ở nông thôn, phục vụ tốt hơn đời sống xã hội khu vực nông thôn... Những khái niệm này trên chưa phản ánh hết được những hiệu quả tích cực cũng như tính cần thiết của việc phát triển kinh tế làng nghề. Nghiên cứu sâu hơn nữa về những làng nghề đạt được những tiêu chí như trên ta có thể thấy được điều đó. 2. Sự hình thành và phát triển của làng nghề : Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, một điển hình của nền văn minh lúa nước với nghề trồng lúa, trồng màu, trồng rau quả và chăn nuôi. Sự hình thành và phát triển kinh tế nông nghiệp gắn liền với xã hội nông thôn và làng quê Việt Nam. Làng ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước. Do đặc điểm kinh tế lúc đó nên sự hình thành làng ở nước ta không phải do sự phân hoá của các thị tộc, bộ lạc hay sự tập hợp dân cư dưới sự bảo hộ của những thủ lĩnh quân sự như ở một số nơi khác mà hình thành trên cơ sở công xã nông thôn. mỗi công xã nông thôn gồm một số gia đình có tinh thần cộng đồng sống trong một khu vực nhất định. Từ đó, các làng ở nước ta hình thành bao gồm 4 nhóm chính: Làng thuần nông nghiệp; làng nông có thêm nghề buôn với một lớp thương nhân chuyên hoặc bán chuyên nghiệp (làng buôn); làng nông có thêm một hay nhiều nghề thủ công truyền thống (làng nghề ) và cuối cùng là làng chài. ở nông thôn nước ta, trong các hộ tiểu nông ngoài việc sản xuất nông nghiệp là chính trong những lúc nông nhàn người nông dân còn tham gia những công việc có tính phụ trợ như đan lát, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải... Đây có thể coi là sự kết hợp hữu cơ giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Nó nằm trong cơ cấu mà Các Mác gọi là “ Phương thức sản xuất Châu á”. Những người thợ thủ công hay thương nhân này thực chất vẫn là nông dân, vẫn thực hiện cái công việc chính yếu của nhà nông. Do đặc điểm này mà Lê-nin đã nhận xét: “Công nghiệp gia đình là cái phụ thuộc tất nhiên của kinh tế tự nhiên mà những tàn dư hầu như vẫn luôn rớt lại ở những nơi nào có tiểu nông... và đứng về mặt là một nghề nghiệp thì công nghiệp vẫn chưa tồn tại dưới các hình thức đó: ở đây, nghề thủ công với công nghiệp chỉ là một mà thôi.” Do sự phát triển của nền kinh tế, nghề thủ công dần dần tách ra khỏi nông nghiệp và quay lại phục vụ cho nông nghiệp. Khi đó một số thợ thủ công không còn làm nghề nông nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê, lao động sinh sống trên làng quê và hoạt động sản xuất tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống cho khu vực này. Số người tách khỏi ruộng đồng ngày càng lớn. Họ chuyển hẳn sang làm nghề thủ công và tồn tại, sinh sống bằng nghề đó. Theo đó, các làng có số người làm nghề tăng lên và trở thành làng nghề. Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần, tồn tại cố định của một hay nhiều nghề thủ công truyền thống. Mỗi nghề thủ công truyền thống được bảo tồn, hoạt động và phát triển ở một làng nghề, cụm làng nghề hay ở nhiều làng nghề, vùng nghề. Điều này xuất phát và do đó cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ, tính thiết thực của các nghề thủ công lâu đời ở nước ta. Đối với các làng nghề mới, sự hình thành không qua khoảng thời gian lâu dài như vậy nhưng các làng nghề mới cũng xuất phát do những nhu cầu cấp thiết mà trước hết là nhu cầu của khu vực nông thôn. Sản phẩm của các làng nghề tạo ra đầu tiên là nhằm phục vụ khu vực nông thôn, vì đòi hỏi của khu vực nông thôn cho sản xuất hay sinh hoạt hàng ngày. Lượng lao động làm một hay một số nghề trong phạm vi làng tăng làm hình thành lên các làng nghề mới. Mà trong đó những người lao động cũng có gốc là nông dân, thậm chí vẫn hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cũng như đối với làng nghề truyền thống, sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật đào tạo... giữa các hộ sản xuất đã tạo nên làng nghề ngay trên đơn vị cư trú của họ. Cái ban đầu thúc đẩy người nông dân làm việc trong các ngành nghề nông thôn (bao gồm cả nghề truyền thống và nghề mới) đó là phần thu nhập đáng kể do các ngành nghề nông thôn đem lại. Nó chứng tỏ hiệu quả của làng nghề đối với việc phát triển nông thôn. Làng nghề thường xuất hiện theo những con đường chủ yếu sau: -Có nghệ nhân từ nơi khác đến truyền nghề, nghệ nhân này được suy tôn là tổ nghề. -Từ một số cá nhân hay gia đình dòng họ có những kỹ năng và có sự sáng tạo nhất định -Do những người đi nơi khác học sau đó truyền lại nghề -Do chủ trương của địa phương khuyến khích phát triển nghề phụ, phục vụ cho đời sống xã hội và cải thiện đời sống nông dân. -Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số làng nghề khác, tạo ra một cụm làng nghề, xã nghề ở vùng lân cận. Tuỳ theo mỗi địa phương, mỗi ngành nghề, sản phẩm cũng như chất lượng của sản phẩm và tuỳ theo nhu cầu thị trường... mà mỗi làng nghề có một con đường hình thành khác nhau như đã nêu trên. Tuy nhiên, sự tồn tại của làng nghề có bền vững hay không, có đạt được hiệu quả hay không thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có cả những yếu tố chủ quan và khách quan đối với các làng nghề. Hải Phòng, một thành phố trẻ mới thành lập hơn 100 năm ( từ năm 1888) nhưng người nông dân xa xưa cũng đã có truyền thống sản xuất thủ công nghiệp. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Hải Phòng đã có trên 60 làng nghề truyền thống với trên 20 ngành nghề khác nhau. Đó là những ngành nghề truyền thống đã từng có tên tuổi trong cả nước như nghề dệt ( Cổ Am- Vĩnh Bảo), nghề điêu khắc, sơn mài (Bảo Hà- Vĩnh Bảo), nghề ươm tơ dệt lụa (Lương Quy-An Hải)... Những ngành nghề này đã có khoảng thời gian phát triển rất thịnh vượng nhưng do những biến động của thời gian cùng nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nên hầu hết các làng nghề này bị mai một và đi vào lịch sử. Chỉ có một số nhỏ các làng nghề còn giữ được nghề, tiếp tục tồn tại cho đến nay, còn các làng nghề khác, hoặc bỏ nghề, hoặc chuyển đổi nghề khác phù hợp với nhu cầu thị trường hơn. Từ đó phát sinh các làng nghề mới với những ngành nghề mới như vận tải, vật liệu xây dựng... Tuy nhiên hầu hết các làng nghề này chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả kinh tế không cao. Những năm gần đây, do chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước và Thành phố đã khuyến khích được nhiều ngành sản xuất trong nông nghiệp- nông thôn, nhất là ngành sản xuất có sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống người nông dân. Trong dó có cả việc khôi phục các ngành nghề truyền thống và xây dựng phát triển các ngành nghề mới. Bước đầu, hoạt động này đã có hiệu quả nhưng tính tồn tại và sự phát triển bền vững của các ngành nghề này còn yếu. 3. Đặc điểm của làng nghề: Đặc điểm đầu tiên có thể thấy ở các làng nghề Việt Nam nói chung là sự phát triển của làng nghề gắn liền với sự phát triển của xã hội nông thôn. Nói cách khác, làng nghề có sự gắn bó không tách rời với nông nghiệp nông thôn về lao động, thị trường, nguyên liệu, đất đai... Các nghề thủ công và các ngành nghề nông thôn khác dần tách khỏi nông nghiệp nhưng không tách khỏi nông thôn mà nó quay trở lại phục vụ cho nông thôn. Do đó, phát triển các ngành nghề là góp phần phát triển nông nghiệp-nông thôn. Thứ hai, về hình thức tổ chức sản xuất lao động, nói chung ở các làng nghề từ xưa đến nay chủ yếu vẫn là hình thức tổ chức kinh tế hộ gia đình. Một số đã có sự phát triển thành HTX và xí nghiệp tư nhân. Trong hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình, người chủ gia đình thường là thợ cả, trong đó thường là nghề nhân hoặc thợ giỏi còn các thành viên khác được huy động vào các công đoạn khác nhau của uqá trình sản xuất, kinh doanh và điều này phụ thuộc và khả năng cùng như giới tính hoặc lứa tuổi của từng người. Các cơ sở sản xuất nói chung có thể thuê lao động theo hình thức thường xuyên hay thời vụ tuỳ theo yêu cầu sản xuất và khả năng của bản thân các cơ sở. Hình thức này bảo đảm gắn bó quyền lợi và trách nhiệm, tân dụng được lao động và thời gian. Nó phù hợp với các cơ sở sản xuất nhỏ không có nhu cầu lớn về đầu tư như hiện nay. Thứ ba, về sản phẩm, nguyên liệu và thị trường. Sản phẩm của các làng nghề thường là các vật dụng phục vụ cho đời sống sản xuất và sinh hoạt hàng ngày như các loại thực phẩm (sản phẩm của nghề chế biến nông sản ) hay các vật dụng đơn giản (sản phẩm nghề mây tre đan) hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt ( sản phẩm nghề thêu, dệt, chạm khắc, vận tải)... Các loại sản phẩm này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cho người nông dân mà nó còn mang tính văn hoá, tính mỹ thuật. Nhất là đối với các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, chúng mang những giá trị văn hoá độc đáo, thậm chí trở thành các di sản mang bản sắc của vùng, của dân tộc. Tuy nhiên, do tính chất sản xuất thủ công nên sản xuất không phải là sản xuất hàng loạt mà chỉ đơn chiếc. Các làng nghề cũng chưa đủ khả năng theo kịp được sự phát triển của đời sống xã hội trong nước và thị hiếu nước ngoài. ở Hải Phòng, số lượng các làng nghề truyền thống có tên tuổi không còn nhiều nên chủ yếu các làng nghề hiện nay sản xuất các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khu vực là chính. Nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là khai thác tại địa phương và các nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, các nguồn nông lâm hải sản của địa phương. Việc sơ chế nguyên liệu thông thường do các cơ sở sản xuất tự làm lấy với kỹ thuật thủ công đơn giản hoặc máy móc kỹ thuật tự chế, lạc hậu. Chính vì vậy mà việc tiêu chuẩn hoá chất lượng nguyên liệu cũng như chất lượng sản phẩm là khó khăn. Sản phẩm làm ra có thể tiêu thụ tại địa phương hay xuất ra nước ngoài. Nhưng cũng chính vì chất lượng sản phẩm không đảm bảo nên mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Các loại sản phẩm này thu hút được sự chú ý và hấp dẫn với thị trường nước ngoài do tính thủ công tinh xảo và nét văn hoá truyền thống đặc trưng của các sản phẩm này. Do đó, làng nghề không chỉ là một trong những đơn vị kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thay thế hàng nhập khẩu đồng thời hướng mạnh ra xuất khẩu mà nó còn là nét đặc sắc, sự kết tinh và bảo lưu các giá trị văn hoá của cộng đồng làng xã ở Việt Nam. Về nhu cầu vốn, các làng nghề thường không yêu cầu vốn đầu tư lớn, nhưng lại có khả năng thu hút nhiều lao động, có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Cơ sở vật chất, nhà xưởng và thiết bị công nghệ: tình trạng phổ biến hiện nay trong các làng nghề là sử dụng ngay nhà ở, diện tích ở làm nơi sản xuất. Điều này xuất phát từ quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất theo gia đình. Khi quy mô sản xuất tăng lên hay những sự thay đổi cần thiết về điều kiện sản xuất khác phát sinh thì gây ra rất nhiều khó khăn. Đơn giản như việc sử dụng hoá chất trong sản xuất, do không có những dự trù cho việc xử lý chất thải và hoá chất thải nên những chất thải đọc hại này có ảnh hưởng xấu trực tiếp đến hộ gia đình sản xuất và hơn thế nữa, ảnh hưởng đến cả môi trường chung của làng, xã, những gia đình lân cận. Đây đang là một vấn đề khó cho việc phát triển làng nghề hiện nay. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các làng nghề hiện nay. Những đặc điểm này là một trong những cơ sở đáng lưu ý để nghiên cứu và tạo ra những biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế làng nghề đồng thời hạn chế những tác động không tốt. 4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề hiện nay: 4.1. Nhóm nhân tố tự nhiên: Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vị trí địa lý, và điều kiện tự nhiên như khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm... Nhân tố vị trí địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề. Nếu một làng nghề có địa thê nằm gần nơi có nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm hay có những yếu tố thuận lợi tự nhiên về thông thương thì đó là những đặc điểm thuận lợi quan trọng cần khai thác. Nếu vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển lâu dài của các làng nghề thì điều kiện tự nhiên của mỗi vùng cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề. Khí hậu, thời tiết tại mỗi nơi tạo ra những nguồn nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề. Ví dụ như đối với làng lụa vạn phúc có khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng dâu nuôi tằm, Làng nghề Bát Tràng có đất đai phù hợp với sản xuất gốm sứ... Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên quan trọng ảnh hưởng đến không chỉ sự hình thành mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của các làng nghề. 4.2. Nhóm nhân tố kinh tế Nhóm nhân tố kinh tế bao gồm các yếu tố thị trường, sản phẩm, vốn, cơ sở hạ tầng, trình độ lao động... Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là sản phẩm. Làng nghề sinh ra nhằm sản xuất đáp ứng nhu cầu của người nông dân về các sản phẩm dùng cho sản xuất hay sinh hoạt hàng ngày. Đó là những cái thúng, cái sàng, cái cày, cái nón... cho người lao động, hàng bún, hàng bánh, hàng rượu... làm quà cho người đi xa về gần, hàng tranh, hàng thêu... trang trí cho nhà của, vật dụng... Cùng với thời gian, những sản phẩm này mang theo những giá trị văn hoá riêng của tâm hồn người Việt. Nhưng trước hết, nó là những sản phẩm để sử dụng. Do đó, muốn tồn tại nó phải đáp ứng với nhu cầu sử dụng hiện nay. Nghĩa là, nó phải tiện dụng, hình thức mẫu mã đẹp, bền chắc và giá rẻ. Với các sản phẩm là thực phẩm thì nó còn phải đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Trước đây, các làng nghề Việt Nam bị mai một một phần do sự cạnh tranh không khoan nhượng của các sản phẩm công nghiệp. Trong khi sản xuất ở làng nghề mang nặng tính thủ công, sản xuất đơn chiếc với chất lượng không đồng đều, số lượng không ổn định cùng nhiều yếu điểm khác thì các sản phẩm công nghiệp, tù vật dụng cho đến đồ ăn, tràn lan với hình thức hấp dẫn, mới mẻ hơn, giá lại rẻ, đáp ứng với số lượng lớn và chất lượng đều nhau. Một số làng nghề đã không thể chống đỡ nổi với tình hình này và như vậy đầnh bỏ nghề hoặc chuyển sang nghề khác sinh nhai. Nói như vậy để thấy được tầm quan trọng của sản phẩm và tính cạnh tranh của sản phẩm sản xuất ra đến sự tồn tại của làng nghề. Và ta cùng thấy được rằng, sản phẩm là một trong những yếu tố đầu tiên quan trọng, là điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của làng nghề. Do đó, khi sản xuất, người ta phải tính toán được tính cạnh tranh và khả năng tiêu thụ của các sản phẩm ấy. Nhu cầu thị trường ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề còn là nhu cầu của thị trường về các loại sản phẩm của làng nghề. Có cầu thì mới có cung, nếu thị trường còn có nhu cầu về các loại sản phẩm của làng nghề thì làng nghề mới có thể có đất sống. Các làng nghề sản xuất thực phẩm bún, bánh,... là đặc sản quê hương tồn tại được cũng vì những lý do đó. Sản phẩm làm ra hàng ngày cung cấp cho người tiêu dùng trong khu vực và trở thành những món quà đặc sắc cho những người ở vùng khác. Cũng như vậy với những làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làm ra là sự kết tinh của những tài hoa, là văn hoá phẩm độc đáo, nhất là đối với người nước ngoài. Với các làng nghề mới, thị trường khu vực có nhu cầu về sản phẩm của họ vì tính tiện dụng, thuận lợi trong mua bán, vận chuyển và giá cả hợp lý. Nếu các làng nghề này không đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu trên thì thị trường dễ dàng chuyển qua các loại sản phẩm tương tự khác có thể thay thế. Như vậy thị trường là một nhân tố tác động từ phía ngoài nhưng không kém phần quan trọng với sự phát triển của kinh tế làng nghề. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vốn và cơ sở hạ tầng. Vốn và cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định để phát huy các tiềm năng khác về lao động, ngành nghề các nguồn lực khác. Đây là yếu tố quan trọng, là cơ sở để giải quyết các yếu tố đầu vào khác. Vốn bao gồm vốn đầu tư và vốn sản xuất, trong đó vốn đầu tư, trong đó vai trò quan trọng thuộc về vốn sản xuất. Có vốn nghĩa là có khả năng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của đơn vị sản xuất, có thể tiến hành nhập nguyên liệu, thuê lao động và giao dịch tiêu thụ sản phẩm. Tất cả các khâu của sản xuất, tiêu thụ đều cần thiết sự có mặt của vốn. Không chỉ quan trọng đôi với sản xuất đơn thuần mà quy mô vốn đầu tư còn trực tiếp ảnh hưởng đến quy mô sản xuất, khả năng mở rộng quy mô sản xuất và từ đó, có tác động đến hiệu quả kinh doanh. Như vậy, vốn có vai trò quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh nói chung và đối với làng nghề nói riêng. Ngành nông nghiệp Việt Nam vốn có nhược điểm là sản xuất nhỏ, manh mún, chủ yếu sản xuất thuần nông nên cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, kết cấu hạ tầng thấp kém. Sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị ở nước ta là khá lớn. Những yếu kém trong cơ sở hạ tầng gây nên những ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất của làng nghề nói riêng. Để cải thiện tình trạng này, cần thiết phải có sự đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước... để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Nhân tố thứ ba có ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề là lao động và kỹ thuật. Lao động sản xuất của làng nghề là tổng thể sức lao động tham gia vào sản xuất của các làng nghề, nó bao hàm cả về số lượng và chất lượng của người lao động. Về số lượng, lao động làng nghề không chỉ gồm những người trong độ tuổi lao động mà còn bao gồm cả người già và trẻ em tham gia vào hoạt động sản xuất. Những nghề là nghề truyền thống thì người già, người ngoài độ tuổi lao động lại có thể là nguồn nhân lực quý giá bởi chính những kinh nghiệm và thời gian làm nghề của họ. Những nghệ nhân, thợ giỏi là người có tuổi đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Đây là một đặc điểm đáng lưu ý trong việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực ở làng nghề so với các ngành khác và thậm chí so với cả ngành nông lâm nói chung. Ngoài ra, lao động làng nghề còn có tính thời vụ. Điều

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100873.doc
Tài liệu liên quan