- Dòng sinh học là dòng sinh ra do sựhoạt động của các tếbào sống. 
 - Dòng sinh hoá là dòng gây nên bởi sựthay đổi nồng độiôn trong và 
ngoài tếbào. 
Tếbào là đơn vịsống nhỏnhất của sinh vật. Tếbào gồm nhân tếbào, 
màng tếbào, chất nguyên sinh. Nhân tếbào giữchức năng sinh sản, màng tế
bào giữchức năng trao đổi với môi trường. Nguyên sinh chất giữchức năng 
mang tải các chất dinh dưỡng và các chất đào thải. Màng tếbào có tính bán 
thẩm thấu do đó duy trì những nồng độkhác nhau của các vật trong và ngoài 
tếbào. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 82 trang
82 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tín hiệu điện tim và hệ thống các chuyển đạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
TÍN HIỆU ĐIỆN TIM VÀ HỆ THỐNG CÁC 
 CHUYỂN ĐẠO 
1. Tế bào và dòng sinh học: 
 - Dòng sinh học là dòng sinh ra do sự hoạt động của các tế bào sống. 
 - Dòng sinh hoá là dòng gây nên bởi sự thay đổi nồng độ iôn trong và 
ngoài tế bào. 
 Tế bào là đơn vị sống nhỏ nhất của sinh vật. Tế bào gồm nhân tế bào, 
màng tế bào, chất nguyên sinh. Nhân tế bào giữ chức năng sinh sản, màng tế 
bào giữ chức năng trao đổi với môi trường. Nguyên sinh chất giữ chức năng 
mang tải các chất dinh dưỡng và các chất đào thải. Màng tế bào có tính bán 
thẩm thấu do đó duy trì những nồng độ khác nhau của các vật trong và ngoài 
tế bào. 
Hình vẽ 1.1 
Sức điện động của các điện cực của một dung dịch điện phân. 
 E = E0 + CnF
RT ln 
 Hình1.1 
Khi hai tế bào nồng độ C1, C2 khác nhau nối với nhau bằng một cầu điện hóa. 
 E = E0 + 
2
1ln
C
C
nF
RT 
 ở 18oC E = 0.058.log
2
1
C
C 
Nếu hai môi trường là chất khác nhau Hình1.2 
Co
nd
uc
tan
ce
(m
es
ur
e ò
 pẻ
m
ea
bil
ity
) 
Na+ 
K+ 
0 1 2 3 4
Time, ms 
m
V
ψk+ (-75mV)
ψNa+ (+55mV)
ψm (-61mV)
0 1 2 3 4 
Time, ms 
+60
+30
0
-30
-60
-90
 2
 E = 
22
11ln
fC
fC
nF
RT 
 1F :hệ số hoạt động của các chất C1; f2 hệ số hoạt động của các chất C2 
 Biến đổi E = 
2
1ln
C
C
vu
vux
nF
RT
+
− 
u – hệ số hoạt động về điện áp dòng gây nên hai bên màng bán thấm của cation. 
v – hệ số hoạt động về điện áp dòng gây nên hai bên màng bán thấm của anion. 
Chất H+ K+ Na+ NH4+ 1/2Mn++
U,v 32.7 6.7 4.5 6.7 4.5 
Chất 1/2Ca++ OH- Cl- HCO- 1/2SO4---
U,v 5.3 18 6.8 4.6 7.1 
 Đưa điện cực vào trong và ngoài tế bào xuất hiện điện sức điện động: 
 E = Ek + ENa + E 
 Ek = ⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
+
+
e
i
K
K
F
RT ln ENa = ⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
+
+
e
i
Na
Na
Ln
F
RT
 5020 ÷=⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡=⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
−
−
+
+
e
i
e
i
Cl
Cl
K
K 
10
1=⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
+
+
e
i
Na
Na 
 Khi tế bào bắt đầu hoạt động (bị kích thích), điện thế mặt ngoài tế bào sẽ 
trở thành âm tính tương đối (bị khử mất cực dương) so với mặt trong: người 
ta gọi là hiện tượng khử cực (depolarisation). Sau đó, tế bào lập lại thế thăng 
bằng ion nghỉ, điện thế mặt ngoài trở lại dương tính tương đối (tái lập cực 
dương) người ta gọi đó là hiện tượng tái cực (repolarisation). 
 Hình vẽ 1.2 
2. Các quá trình điện học của tim : 
 Ngày nay khoa điện sinh lí học hiện đại đã cho ta biết rõ, dòng điện do 
tim phát ra vì đâu mà có ? 
 Đó là do sự biến đổi hiệu điện thế giữa mặt trong và mặt ngoài màng tế 
bào cơ tim. Sự biến đổi hiệu điện thế này bắt nguồn từ sự di chuyển của các 
ion (K+, Na+...) từ ngoài vào trong tế bào và từ trong ra ngoài khi tế bào cơ 
 3
tim hoạt động, lúc này tính thẩm thấu của màng tế bào đối với các loại ion 
luôn luôn biến đổi. 
 Hình 1.3 :Sự di chuyển của các ion Na+,K+,Ca++ 
qua màng tế bào, hình thành đường cong điện thế hoạt 
động, nguồn gốc của dòng điện tim 
 Khi tế bào bắt đầu hoạt động (bị kích thích), điện thế mặt ngoài màng 
tế bào sẽ trở thành âm tính tương đối (bị khử mất cực dương) so với mặt 
trong: người ta gọi đó là hiện tượng khử cực (despolarisation) (Hình1và2). 
Hình 1.4: Khử cực (b) và tái cực (c) trên một tế bào đơn giản. 
 Sau đó, tế bào dần dần lập lại thế thăng bằng ion lúc nghỉ, điện thế mặt 
ngoài trở lại dương tính tương đối (tái lập cực dương): người ta gọi đó là hiện 
tượng tái cực (repolaisation). 
3. Khái niệm về điện tim đồ: 
Điện tâm đồ là một đường cong ghi lại các biến thiên của các điện lực do 
tim phát ra trong hoạt động co bóp. Điện lực đó rất nhỏ, chỉ tính bằng milivôn 
 4
nên rất khó ghi. Cho đến năm 1903, Einthoven mới lần đầu ghi được nó bằng 
một điện kế có đầy đủ mức nhạy cảm. 
Phương pháp ghi điện tim đồ cũng giống như cách ghi các đường cong 
biến thiên tuần hoàn khác: người ta cho dòng điện tim tác động lên một bút 
ghi làm bút này dao động qua lại và vẽ lên một mặt giấy, nó được động cơ 
chuyển động đều với một tốc độ nào đó. Ngày nay, người ta đã sáng chế ra rất 
nhiều loại máy ghi điện tim nhạy cảm, tiện lợi. Các máy đó có bộ phận 
khuếch đại bằng đèn điện tử hay bán dẫn và ghi điện tim đồ trực tiếp lên giấy 
hay vẽ lên màn huỳnh quang. Ngoài ra, chúng còn có thể có một hay nhiều 
dòng, ghi đồng thời được nhiều chuyển đạo cùng một lúc, ghi điện tim đồ liên 
tục 24 giờ trên băng của một máy gắn nhỏ gắn vào người (Cardiocassette 
Type Holter). 
4. Cơ chế hình thành tín hiệu điện tim : 
 Tim là một khối cơ rỗng gồm 4 buồng dày mỏng không đều nhau, co bóp 
khác nhau. Cấu trúc phức tạp đó làm cho dòng điện hoạt động của tim (khử 
cực và tái cực) cũng biến thiên phức tạp hơn ở tế bào đơn giản như đã nói ở 
trên. 
Hình1.5: Tim với hệ thần kinh tự động của nó. 
 5
 Quy ước mắc điện cực và định nghĩa sóng âm sóng dương. 
 Tim hoạt động được là nhờ một xung động truyền qua hệ thống thần kinh 
tự động của tim. Đầu tiên, xung động đi từ nút xoang toả ra cơ nhĩ làm cho 
nhĩ khử cực trước; nhĩ bóp trước đẩy máu xuống thất. Sau đó nút nhĩ-thất 
Tawara tiếp nhận xung động truyền qua bó His xuống thất làm thất khử cực: 
lúc này thất đã đầy máu sẽ bóp mạnh đẩy máu ra ngoài biên. Hiện tượng nhĩ 
và thất khử cực lần lượt trước sau như thế chính là để duy trì quá trình huyết 
động bình thường của hệ thống tuần hoàn. Đồng thời điều đó cũng làm cho 
điện tim đồ bao gồm hai phần: một nhĩ đồ, ghi lại dòng điện của nhĩ, đi trước, 
và một thất đồ, ghi lại dòng điện của thất đi sau. 
 Để thu được dòng điện tim, người ta đặt những điện cực của máy ghi điện 
tim lên cơ thể. Tuỳ theo chỗ đặt các điện cực, hình dáng điện tim đồ sẽ khác 
nhau. Nhưng trong mấy ví dụ dưới đây, để cho thống nhất và đơn giản, quy 
ước (Hình1.5) đặt điện cực dương (B) ở bên trái quả tim và điện cực âm (A) 
ở bên phải quả tim. 
Như vậy (Hình1.5): 
 - Khi tim ở trạng thái nghỉ (tâm trương) không có dòng điện nào qua máy và 
bút sẽ chỉ ghi lên giấy một đường thẳng ngang, ta gọi đó là đường đồng điện 
(isoelectric line). 
 - Khi tim hoạt động (tâm thu) điện cực B thu được một điện thế dương tính 
tương đối so với điện cực thì bút sẽ vẽ lên giấy một làn sóng dương, nghĩa là 
ở mé trên đường đồng điện. 
 Trái lại, điện cực A dương tính tương đối thì bút sẽ vẽ lên một làn sóng 
âm, nghĩa là ở mé dưới đường đồng diện. 
4.1 Nhĩ đồ (ghi dòng điện hoạt động của nhĩ): 
 Như trên đã nói, xung động đi từ nút xoang (ở nhĩ phải) sẽ toả ra làm khử 
cực cơ nhĩ như hình các đợt sóng với hướng chung là từ trên xuống dưới và từ 
phải sang trái (Hình1.6). Như vậy, véctơ khử cực nhĩ có hướng từ trên xuống 
dưới và từ phải sang trái, làm với đường ngang một góc 49o (Hình1.6), đường 
thẳng nằm trùng với véctơ này gọi là trục điện nhĩ. 
 6
Lúc này, điện cực B sẽ là dương tương đối và ta có thể ghi được một 
sóng dương thấp, nhỏ, tầy đầu với thời gian khoảng 0.08s gọi là sóng P. Do 
đó, trục điện nhĩ gọi là sóng P kí hiệu là ÂP (P axis). Khi nhĩ tái cực nó phát 
ra một sóng âm nhỏ gọi là sóng Ta (auricular T). Nhưng ngay lúc này cũng 
xuất hiện khử cực thất với điện thế mạnh hơn nhiều. Nên trên điện tâm đồ gần 
như ta không thấy sóng T nữa. Kết quả nhĩ đồ chỉ thể hiện trên điện tâm đồ 
một sóng đơn độc là sóng P. 
 Hình 1.6: Nhĩ đồ 
a) Quá trình khử cực ở nhĩ ; trục điện nhĩ; 
b) Nhĩ đồ bình thường: sóng P; 
c) Nhĩ đồ khi chuyển đạo thực quản, chuyển đạo trong buồng tim hay 
đặt điện cực trực tiếp lên nhĩ (mổ tim, thực nghiệm) 
 7
4.2 Thất đồ (Ghi lại dòng điện của thất): 
a) Khử cực: 
 Ngay khi nhĩ còn đang khử cực thì xung động đã bắt vào nút nhĩ-thất rồi 
truyền qua thân và hai nhánh bó His xuống khử cực thất. 
 Việc khử cực bắt đầu từ phần giữa liên thất đi xuyên qua mặt phải vách này, 
tạo ra một véctơ khử cực đầu tiên hướng từ trái sang phải: điện cực A sẽ 
dương tính tương đối và máy ghi được một sóng âm nhỏ nhọn gọi là sóng Q 
(Hình1.7a). 
 Sau đó xung động truyền xuống và tiến hành khử cực đồng thời cả 2 tâm 
thất theo hướng xuyên qua bề dày cơ tim. Lúc này, véctơ khử cực hướng 
nhiều về bên trái hơn vì thất trái dày hơn và tim nằm nghiêng về bên trái. Do 
đó, véctơ khử cực chung hướng từ phải qua trái và điện cực B lại dương cao 
hơn, nhọn gọi là sóng R (Hình1.7b). 
 Sau cùng khử cực nốt vùng cực đáy thất, lại hướng từ trái sang phải, máy 
ghi được sóng âm nhỏ gọi là sóng S (Hình1.7c). 
 8
 Hình 1.7: Quá trình khử cực thất và sự hình thành phức bộ QRS. 
 9
 Tóm lại, khử cực thất bao gồm 3 làn sóng cao nhọn Q, R, S biến thiên phức 
tạp nên được gọi là phức bộ QRS (QRS complex).Vì nó có sức điện động 
tương đối lớn lại biến thiên nhanh trong một thời gian ngắn, chỉ khoảng 0,07s 
nên còn gọi là phức bộ nhanh. Trong phức bộ này sóng chính lớn nhất là sóng 
R. 
 Nếu đem tổng hợp 3 véctơ khử cực lại ta được véctơ khử cực trung bình 
hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái và làm với đường ngang một góc 
58o. Véctơ này gọi là trục điện trung bình của tim hay trục điện tim. 
b) Tái cực: 
 Thất khử cực xong sẽ qua giai đoạn tái cực chậm, không thể hiện trên điện 
tâm đồ bằng một sóng nào hết mà chỉ là một đoạn thẳng đồng điện gọi là đoạn 
T_S. Sau đó là thời kì tái cực nhanh (sóng T). 
 Tái cực có xu hướng đi xuyên qua cơ tim, từ lớp dưới thượng tâm mạc tới 
lớp dưới nội tâm mạc. Sở dĩ tái cực đi ngược chiều với khử cực là vì nó tiến 
hành đúng vào lúc tim co bóp với cường độ mạnh nhất, làm cho lớp cơ tim 
dưới nội tâm mạc bị lớp ngoài nén vào mạnh nên tái cực muộn đi. Do đó, tuy 
tiến hành ngược chiều với khử cực, nó vẫn có véctơ tái cực hướng từ trên 
xuống dướivà từ phải qua trái làm phát sinh làn sóng dương thấp, tầy đầu gọi 
là sóng T (Hình1.8). 
 Hình1.8: Quá trình tái cực và sự hình thành sóng T 
 10
 Sóng T này không đối xứng và còn gọi là sóng chậm vì nó kéo dài 
0.2s. Sau khi sóng T kết thúc có thể thấy một sóng chậm, nhỏ gọi là sóng 
U. Đây là giai đoạn muộn của tái cực. 
 Tóm lại, thất đồ chia làm hai đoạn: 
- Giai đoạn khử cực gồm phức bộ QRS được gọi là pha đầu. 
- Giai đoạn tái cực gồm ST và T (cả U nữa) gọi là pha cuối. 
4.3 Truyền đạt nhĩ thất : 
 Như trên đã nói, khi sóng P kết thúc là hết nhĩ đồ, khi bắt đầu sóng Q là 
bắt đầu thất đồ. Nhưng nhìn vào điện tim đồ, ta thấy P và Q có một khoảng 
ngắn đồng điện (gọi là khúc PQ) chứng tỏ ràng sau khi nhĩ khử cực xong rồi, 
xung đột vẫn chưa truyền đạt xuống tới thất. Nhung khúc PQ không thể đại 
diện cho thời gian truyền đạt từ nhĩ tới thất. Vì người ta biết rằng ngay khi nhĩ 
còn đang khử cực (nghĩa là còn đang ghi sóng P) thì xung động đã bắt vào nút 
nhĩ-thất và bắt đầu truyền đạt xuống phía thất rồi. Do đó, để đạt một mức 
chính xác cao hơn (tuy rằng không hoàn toàn đúng), người ta thường đo khởi 
điểm sóng P đến khởi điểm sóng Q (hay khởi điểm sóng R (nếu không có Q) 
Tức khoảng PQ và gọi là thời gian truyền đạt nhị- thất, bình thường dài từ 
0,12s đến 0,20s. 
Hình1.9: Sự tiếp diễn của các sóng, khoảng và thời kì tâm thu và tâm trương 
trên điện tim đồ 
 Tóm lại,điện tim đồ bình thường của mỗi nhát bóp tim (chu chuyển tim) 
gồm sáu làn sóng nối tiếp nhau mà người ta dùng sáu chữ cái liên tiếp để đặt 
tên là: P,Q,R,S,T,U, trong đó người ta phân ra một nhĩ đồ: sóng P; một thất 
đồ: các sóng Q,R,S,T,U-với thời gian truyền đạt nhĩ-thất: khoảng PQ. 
 11
 Với tần số tim bình thường (khoảng 75 nhịp/min), thì sau sóng T (hoặc 
sóng U);tim sẽ nghỉ đập khoảng 0,28s thể hiện bằng một khoảng thẳng đồng 
diện (hình1.9) rồi lại tiếp sang lần bóp sau với một loạt sóng P,Q,R,S,T,U 
khác và cứ như thế tiếp diễn. Thời gian nghỉ trên gọi là thời kỳ tâm trương 
toàn thể của tim. 
5. Hệ thống các chuyển đạo: 
 Cơ thể con người là một môi trường dẫn điện, vì thế dòng điện do tim phát 
ra được truyền đi khắp cơ thể, biến cơ thể thành điện trường của tim. Nếu đặt 
2 điện cực lên bất cứ điểm nào đó của điện trường này, ta thu được dòng 
điện thể hiện điện thế giữa hai điểm đó gọi là chuyển đạo hay đạo trình 
(Lead). Nó thể hiện trên máy ghi bằng một đường cong điện tâm đồ có hình 
dạng khác nhau tuỳ thuộc vị trí đặt điện cực. Do đó cần thiết phải qui chuẩn 
vị trí đặt điện cực để đạt được hiệu quả cao nhất. 
 Hiện nay người ta đặt điện cực theo 12 cách thu được 12 chuyển đạo thông 
dụng gồm 3 chuyển đạo mẫu, 3 chuyển đạo đơn cực các chi và 6 chuyển đạo 
trước tim. Tại mỗi chuyển đạo ta được một dạng sóng điện tim đồ khác nhau. 
5.1 Chuyển đạo mẫu : 
 Còn gọi là các chuyển đạo lưỡng cực các chi hay lưỡng cực ngoại biên.Vì 
cả hai điện cực của chúng đều là những điện cực thăm dò, được đặt như sau: 
 - Chuyển đạo I: Điện cực âm ở cổ tay phải, điện cực dương ở cổ tay trái, gọi 
đó là chuyển đạo I, viết tắt là D1 (Hình 1.10). 
Hình1.10: Sơ đồ mắc các chuyển đạo mẫu. Điện cực đặt ở chân phải là 
dây nối đất để chống ảnh hưởng tạp. 
 12
 - Chuyển đạo II: Điện cực âm ở cổ tay phải, dương ở cổ tay trái, gọi đó là 
chuyển đạo 2 viết tắt là D2. 
 - Chuyển đạo III: Điện cực âm ở tay trái, điện cực dương ở chân trái., gọi đó 
là chuyển đạo 3, viết tắt là D3. 
5. 2 Chuyển đạo đơn cực các chi : 
 Như trên đã thấy các chuyển đạo mẫu đều có hai điện cực thăm dò để ghi 
hiệu điện thế giữa hai điểm của điện trường tim. Nhưng khi muốn nghiên cứu 
hiệu điện thế riêng biệt của một điểm thì ta phải biến một cực thành trung 
tính. Muốn vậy người ta nối điện cực đó (điện cực âm) với một điện cực trung 
tâm gọi là CT (điện cực dương) thì đem đặt các vùng thăm dò. 
 Khi điện cực thăm dò đặt ở chi thì gọi là chuyển đạo đơn cực chi, thường 
hay đặt điện cực thăm dò ở 3 vi trí sau: 
 - Cổ tay phải: Ta được chuyển đạo VR (Voltage right) thu được điện áp ở 
mé bên phải và đáy tim. Trục chuyển đạo là đường thẳng nối tâm điểm (O) ra 
vai phải (R). 
Hình1.11: Cách dấu cực trung tâm CT và mắc một chuyển 
đạo đơn cực chi (ở đây là VR) 
 13
 - Cổ tay trái: ta được chuyển đạo VL (voltage left) nó nghgiên cứu điện thế 
về phía thất trái. Trục chuyển đạo ở đây là đường thẳng OL. 
 - Cổ chân trái: ta được chuyển đạo VF (voltage food) đây là chuyển đạo độc 
nhất có thể nhìn thấy được thành sau dưới đáy tim. Trục chuyển đạo là đường 
thẳng OF. 
 Sau này, cải tiến thành chuyển đạo cực chi tăng thêm (kí hiệu AVL, AVR, 
AVF). 
 Tất cả 6 chuyển đạo I, II, III, AVR, AVL, AVF được gọi là chuyển đạo 
ngoại biên vì đều có chuyển đạo thăm dò đặt tại các chi. Để xem xét một cách 
đầy đủ về các tín hiệu của tim ta phải ghi thêm các chuyển đạo trước tim. 
5.3 Chuyển đạo trước tim: 
 Thường ghi đồng loạt cho bệnh nhân 6 chuyển đạo trước tim thông dụng 
nhất kí hiệu là V1-V6: đó là các chuyển đạo đơn cực có một điện cực trung 
tính nối vào cực trung tâm (CT) và một điện cực thăm dò đặt lần lượt trên 6 
điểm ở vùng trước tim. 
 V1: Khoảng liên sườn 4 bên phải, sát bờ xương ứu. 
 V2: Khoảng liên sườn 4 bên trái, sát bờ xương ứu. 
 V3: Điểm giữa đường thẳng nối V2 và V4. 
 V4: Giao điểm của đường dọc đi qua điểm giữa xương đòn trái với 
đường đi qua mỏm tim (hay nếu không xác định được vị trí mỏm tim thì lấy 
khoảng liên sườn 5 trái). 
 V5: Giao điểm của đường giao điểm của đường nách trước với 
đường ngang đi qua V4. 
 V6: Giao điểm của đường nách giữa với đường V4, V5. 
 Như vậy, trục chuyển đạo của chúng sẽ là những đường thẳng hướng từ 
tâm của tim đến tới điểm cực tương ứng, các trục đó nằm trên các đường 
thẳng nằm ngang (horixontal plane) hay phần nằm ngang. 
 14
 Hình1.12: Vị trí đặt điện cực của các chuyển đạo trước tim 
6. Đặc điểm của tín hiệu điện tim: 
 Về nguồn gốc tín hiệu điện tim đã trình bày ở trên, phần này sẽ trình bày 
các dặc trưng cơ bản của tín hiệu điện tim: 
- Tín hiệu điện tim là tín hiệu có dạng phức tạp với tần số lặp lại khoảng từ 
0.05-300Hz. Về hình dạng các sóng P, Q, R, S, T, U, V được trình bày ở mục 
trên. Qúa trình tính toán, phân tích, kể cả trường hợp bệnh lí, trường hợp méo 
tín hiệu, người ta xác định được dải tần tiêu chuẩn bảo đảm thể hiện trung 
thực tín hiệu điện tim là từ 0.05-100Hz. Giới hạn trên để đảm bảo phức bộ 
QRS không bị méo. Giới hạn dưới để đảm bảo trung thực sóng P và T. 
- ở các máy điện tim hiện đại nghiên cứu trong phòng thí nghiệm tiêu chuẩn 
này cao hơn từ 0.01-2000Hz. 
 Xét về dải rộng của tín hiệu thì biên độ các sóng P, Q, R, S, T, U rất khác 
nhau. Biên độ các sóng ghi được trong các chuyển đạo mẫu là nhỏ nhất (do 
điện trường tim ở các chi là yếu nhất). Biên độ các chuyển đạo ở lồng ngực là 
lớn nhất. 
 15
• Biên độ các sóng P, Q, S nhỏ nhất cỡ 0.2 - 0.5mV. 
• Biên độ lớn nhất là sóng R cỡ 1.5 - 2mV. 
• Quãng thời gian tồn tại của sóng : 
P – R: 0.12s đến 0.2s 
 Q – T : 0.35s đến 0.44s 
S – T : 0.05s đến0.15s 
QRS : 0.05s đến 0,09s 
 P: 0,05s đến 0,11s 
 PQ: 0,11s đến 0,2s 
 Toàn bộ các sóng điện tim gồm : 
 - Chuyển đạo trước tim V1,V2,V2,V4,V5,V6. 
 - Chuyển đạo mẫu I ,II, III. 
 - Chuyển đạo ngoại biên tăng cường aVR, aVL, aVF. 
 Hình1.12: Điện tâm đồ bình thường và các con số chủ yếu 
7. Các tín hiệu bệnh tim và một số ví dụ về dạng tín hiệu không bình 
thường : 
 a) Thấp tim: 
 Dấu hiệu chủ yếu: PQ dài ra; ngoài ra còn có thể có QT dài ra, T dẹt, ST 
chênh, P cao hay dẹt, QRS có móc và có các rối loại nhịp. Các dấu hiệu đó 
 16
có thể chuẩn đoán sớm các ca thấp tim mới phát, tiềm tàng hay không điển 
hình, nhất là ở trẻ em. 
Hình13: PQ dài ra trong bệnh thấp tim. 
b) Tăng gánh thất trái : 
Thường gặp trong các bệnh: tăng huyết áp, hở hay hẹp động mạch chủ, 
hẹp eo động mạch chủ, hở hai lá, ống động mạch, phồng động-tĩnh mạch, 
thiếu năng vành. Với các triệu chứng như: 
- Biên độ R cao lên nhiều khi vượt quá 25mm. 
- Sóng Q hơi sâu nhưng không rộng. 
- Sóng S vắng mặt hoặc rất nhỏ. 
- Nhánh nội điện muộn tới trên 0.045s. 
 17
 Hình1.14: Các triệu chứng của bệnh tăng gánh thất trái. 
d) Blốc nhánh trái : 
 Do một bệnh tim thực thể có dày thất trái: bệnh mạch vành, tăng huyết áp, 
hẹp hay hở động mạch chủ, bệnh cơ tim…Vì tiên lượng của nó không tốt. 
Với các triệu chứng như: 
- Triệu chứng quan trọng nhất không thể thiếu được là QRS tiêu biểu, giãn 
rộng (>= 0.12s). 
- Sóng R giãn rộng có móc ở đỉnh. Sóng Q và sóng S biến mất. 
- Nhánh nội điện muộn quá 0.055s. 
 Hình1.15: Các triệu chứng của bệnh Bloc nhánh trái hoàn toàn. 
 18
 Chương II: GIỚI THIỆU MÁY ĐIỆN TIM ĐÃ ĐƯỢC 
NGHIÊN CỨU 
I. Những vấn đề chung của máy điện tim 
 1.1. Đặc điểm của máy điện tim : 
 Dòng điện hoạt động của tim là tín hiệu một chiều rất nhỏ biến thiên chậm 
nên rất dễ bị ảnh hưởng của các nguyên nhân tác động của bên ngoài như điện 
lưới công cộng, các thiết bị điện khác đặt bên cạnh hoặc các nguồn cảm ứng 
bên ngoài...Mặt khác nó cũng dễ bị tác động của các dòng điện phát sinh từ 
các cơ quan khác như cơ và da bệnh nhân. Nếu việc gắn điện cực lên bệnh 
nhân không tiếp xúc tốt thì tín hiệu cũng dễ bị sai lệch. 
 Khi có các nguồn nhiễu ở bên ngoài tác động lên các điện cực và sẽ được 
qua mạch khuyếch đại lên cùng với tín hiệu điện tim. Các tín hiệu nhiễu này 
như là các tín hiệu đồng pha, vì vậy máy điện tim cần có khả năng chống 
nhiễu tốt, đặc biệt là nhiễu đồng pha. 
 Vì tín hiệu điện tim là tín hiệu một chiều biến thiên chậm, nên việc ghép 
giữa nguồn tín hiệu đầu vào và mạch khuyếch đại, giữa các tầng khuyếch đại 
sẽ không thể ghép điện dung và ghép điện cảm mà phải dùng ghép trực tiếp. 
Nhưng khi ghép trực tiếp, do không có thành phần cách ly một chiều nên khi 
có sự thay đổi nào đó như thay đổi về chế độ một chiều, sự thay đổi của nhiệt 
độ sẽ làm cho tham số của linh kiện thay đổi... sự thay đổi này cũng sẽ được 
đưa đến đầu ra của máy. 
 Sự thay đổi một cách ngẫu nhiên của tín hiệu khi tín hiệu vào không thay 
đổi gọi là hiện tượng trôi, hiện tượng trôi do nhiều nguyên nhân gây ra như 
nhiệt độ nguồn bức xạ bên ngoài tác động vào các linh kiện... 
 Từ các đặc điểm trên máy điện tim phải có các khả năng sau: 
- Vì tín hiệu nhỏ nên máy phải có hệ số khuyếch đại lớn. 
- Trở kháng vào lớn để việc phối hợp trở kháng giữa đầu vào mạch 
khuyếch đại với nguồn tín hiệu để lấy ra điện áp đủ lớn cấp cho bộ 
khuyếch đại làm việcvà thu tín hiệu mà không bị ảnh hưởng của sự thay 
đổi bên ngoài như do các bệnh nhân khác nhau, do tiếp xúc của các điện 
cực. 
- Độ méo của các thiết bị phải nhỏ, để tín hiệu thu được chính xác phục vụ 
cho việc chuẩn đoán bệnh. 
 19
- Khả năng chống nhiễu tốt ,đặc biệt là nhiễu đồng pha. 
- Có độ ổn định cao và lọc nhiễu tốt để phản ánh trung thực tín hiệu điện 
tim. 
- Có độ cách điện tốt để đẩm bảo an toàn điện cho cả người và máy. 
 1.2 Các thông số kỹ thuật cơ bản của máy : 
1) Dải thông tần của máy ghi được giới hạn trên và giới hạn dưới, giới hạn 
dưới đảm bảo cho đường ghi cơ bản (vì loại được các tần số quá thấp). Chỉ 
tiêu kỹ thuật này cũng có thể biểu diễn bằng hằng số thời gian của mạch ghép 
tầng. Hằng số thời gian càng lớn thì độ méo tín hiệu càng giảm trong khu vực 
tần số thấp. Hạn chế trên là giảm độ méo tín hiệu ở khu vực tần số cao. Đôi 
khi để tránh can nhiễu do nguồn điện gây ra người ta bố trí các bộ lọc phụ cắt 
các tần số 40/50/60Hz. 
 Để đảm bảo trung thực, các bộ khuyếch đại tín hiệu điện tim cho qua tín 
hiệu có tần số 0.05- 100Hz. Giới hạn dưới của dải tần tương ứng với hằng số 
thời gian của mạch ghép RC. Nếu hằng số thời gian càng lớn càng tốt (xét về 
độ trung thực của tín hiệu) song nếu quá lớn thì thời gian phục hồi của bộ 
khuyếch đại sẽ quá lâu và nó sẽ rơi vào trạng thái bão hoà. 
2) Hệ số méo phi tuyến : 
 Độ méo cho phép là 5%. Tham số này thể hiện độ chính xác của thiết bị 
trong quá trình khuyếch đại tín hiệu đối với tần số khác nhau. 
3) Độ nhậy : 
 Được xác định trên giấy ghi tín hiệu điện tim bằng chỉ số mm/mV. Là khả 
năng làm lệch đường ghi tính ra mm theo điện áp vào là 1 mV. Thường các 
máy điện tim có một số độ nhậy nhất định và có thể chuyển từ độ nhậy này 
sang độ nhậy khác(5mm/mV, 10mm/mV...). 
4) Hệ số khử nhiễu đồng pha (CMMR): 
 Hệ số khử nhiễu đồng pha lớn hơn 60(CMMR > 60dB) 
5) Trở kháng vào : 
- Để tái tạo trung thực tín hiệu thì trở kháng vào bộ khuyếch đại lớn hơn rất 
nhiều so với trở kháng nguồn tín hiệu. 
- Với các chuyển đạo mẫu I, II, III thì trở kháng vào của bộ khuyếch đại 
phải đạt tới 10MΩ. 
6) Hệ số khuyếch đại 
Bảo đảm mức với Uv = 1mV cho Ura = 1V. 
7) Dòng dò < 10 μA. 
 20
II. Thiết bị ghi điện tim hiện đại : 
 Cùng với sự phát triển của kỹ thuật điện tử, các thiết bị điện tử y tế nói 
chung và thiết bị ghi điện tim nói riêng ngày càng có thêm nhiều tính năng. 
Việc xử dụng kỹ thuật vi xử lý và ghép nối thiết bị ghi điện tim với mạch điện 
toán đã nâng cao tính năng và chất lượng của thiết bị. ở mức độ bình thường 
chúng có thể lưu trữ số liệu, so sánh cập nhật và in các số liệu về điện tim 
cùng tên tuổi bệnh nhân một cách tự động. ở mức độ cao hơn nữa là chuẩn 
đoán bệnh (kết hợp với các khám nghiệm khác). Đồng thời tính an toàn của 
thiết bị cũng được nâng lên như báo động mất nguồn, dòng dò tăng, điện cực 
tiếp xúc xấu.Với kích thước gọn nhẹ, giá thành ngày càng hạ, chắc chắn 
chúng sẽ thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bệnh viện và phòng khám 
bệnh, không chỉ ở các bệnh viện, trung tâm y tế lớn mà còn ở các tuyến dưới, 
tương lai có thể đến tận các tuyến cơ sở. 
 Hình 2.1 trình bày sơ đồ khối của một thiết bị ghi điện tim sở dụng vi xử 
lý. Thiết bị ghi điện tim ghép nối với máy điện toán cũng có sơ đồ như vậy. 
Trong máy điện toán cũng dùng vi xử lý. 
 μP là bộ vi xử lý thực hiện các lệnh toán học, logic và chuyển dữ 
liệu.RAM là bộ nhớ tạm thời, ROM là bộ nhớ chỉ đọc. 
 CPU
(μP)
Đồng hồ 
Lấy mẫu 
A/D và 
ECG
 I/O
Hiển thị bàn 
phím, máy in. 
I/O 
 I/O Băng đĩa từ 
 RAM 
 ROM 
điều 
ể
Hình 2.1: Sơ đồ khối của thiết bị 
ghi điện tim dùng vi xử lý (μP) 
 21
 Vi xử lý và máy điện toán chỉ làm việc với các đại lượng số (đếm được) 
khác với khái niệm điện tim mà chúng ta đang xét ở trên là đại lượng liên tục 
(tương tự). Vì thế tín hiệu điện tim trước khi đưa vào vi xử lý hay máy điện 
toán phải chuyển đổi sang dạng số. Thông tin này là dữ liệu về điện tim. Cũng 
không thể lấy quá nhiều dữ liệu. Cứ cách một khoảng thời gian nào đó người 
ta mới lấy tín hiệu điện tim đưa vào bộ chuyển đổi ra dạng số. Bộ chuyển đổi 
này gọi là bộ chuyển đổi tương tự số (A/D). Khoảng thời gian lặp lại đó gọi là 
chu kỳ lấy mẫu. Tần số lấy mẫu bằng nghịch đảo của chu kỳ lấy mẫu. 
 Ta đã biết rằng phức bộ của sóng điện tim bao gồm sóng P, Q, R, S, T. 
Khoảng cách QRS là hẹp nhất khoảng 0.06 – 0.12 giây, nếu chu kỳ lấy mẫu là 
0.005 giây thì trong khoảng QRS lấy được từ 12 đến 24 mẫu đủ để phản ánh 
nhóm sóng này. 
 Phần trên ta đã trình bày phổ của điện tim là từ 0.05 đến 100 hz, do đó tần 
số lấy mẫu tối thiểu là 200 hz. Độ chính xác của dữ liệu điện tim còn phụ 
thuộc vào mức số hoá (mức lượng tử). Với yêu cầu cao người ta có thể chia 
thành 1000 mức từ 0 đến 999 và để biểu diễn có thể dùng 3 chữ số thập phân. 
Vi xử lý hay máy điện toán chỉ dùng hai trạng thái có điện (1) hay không có 
điện (0) trong các phần tử. Cách biểu diễn này là biểu diễn nhị phân. Mười 
chữ số có thể b
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 may_dien_tim_83_0745.pdf may_dien_tim_83_0745.pdf