Đề tài Văn hoá tộc người

BSVH, là những yếu tố ổn định, ít biến đổi nhất của một nền văn hoá. Nếu nó

biến đổi với biên độvà tần sốcao, theo những chiều hướng trái ngược nhau thì

nền văn hoá đó trở thành không có bản sắc. Sự “ổn định, ít biến đổi” này

cũng chỉ nằm trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. Trong thực tế,

đa sốcác nền văn hoá trên thếgiới đã tự“siêu chỉnh” bản sắc qua quá trình giao

lưu và tiếp biến. Nói là “siêu chỉnh” bởi lẽ, đây là sựvận động nội tại, vận động

chậm, quá trình vận động làm xuất hiện những biến đổi rất tinh tế, rất tựnhiên

trong quan điểm và tư duy của chủthể. Sựbiến đổi dưới hình thức “siêu chỉnh” là

biến đổi tích cực (trong lĩnh vực này, nếu xuất hiện hàng loạt biến đổi trên diện

rộng và sâu thì đó là dấu hiệu bất thường). Những biến đổi tích cực sẽgiúp chủthể

luôn có diện mạo mới nhưng không đánh mất bản sắc của mình. BSVH không thể

là cái bất biến bởi vì đã có không ít nền văn hoá tựđánh mất bản sắc của mình

trước khi bịtiêu diệt hoặc bịđồng hoá.

Tiếp cận BSVH có thểbằng nhiều cách thức khác nhau. Điều này liên quan đến

mô hình và phương pháp nghiên cứu. Một sốmô hình được dùng hiện nay là: mô

hình cấu trúc chức năng, mô hình sinh thái học, mô hình sinh vật xã hội học, mô

hình cấu trúc –hệthống, mô hình mâu thuẫn xã hội . Thực tếnày đã đưa đến hệ

quảlà có một sốlượng khá lớn định nghĩa vềvăn hoá và nhiều quan điểm khác

nhau về BSVH. Dù sử dụng mô hình hay phương pháp nghiên cứu nào thì đối

tượng nghiên cứu chính vẫn là con người với tư cách là chủ thể văn hoá. Mọi

khác biệt chỉcó thểtìm thấy trong những hình thức “hiện thân” khác nhau của chủ

thểvăn hoá. Đó có thểlà các tầng lớp giai cấp khác nhau trong xã hội, các tập thể

sống theo các nghề nghiệp khác nhau, các cư dân trong từng khu vực địa lí tự

nhiên khác nhau, các tộc người với những đặc điểm sinh học và di truyền khác

nhau

pdf13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề tài Văn hoá tộc người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI Trần Long (ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM) Những năm trở lại đây vấn đề văn hoá tộc người được đặc biệt quan tâm. Để khảo sát văn hoá tộc người, chúng ta có thể bắt đầu từ những xuất phát điểm khác nhau. Ở đây chúng tôi xin được bắt đầu từ khái niệm tộc người, tiếp đến là những nội dung cơ bản liên quan đến văn hoá tộc người và cuối cùng là một số vấn đề về bản sắc văn hoá tộc người. 1. Khái niệm tộc người. Tộc người theo nghĩa rộng là một loại hình cộng đồng người. Tộc người theo nghĩa hẹp là tổng hợp những con người được hình thành về mặt lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, dưới một cái tên tự gọi (tộc danh), có những đặc điểm chung tương đối bền vững về văn hóa và tâm lí (trong đó nổi trội là ngôn ngữ); có ý thức về sự thống nhất của họ cũng như sự khác nhau giữa họ với các tộc người khác (nói ngắn gọn là ý thức tộc người). Trong 3 yếu tố: 1/ ngôn ngữ, 2/ lãnh thổ, 3/ ý thức tộc người gắn với tộc danh thì yếu tố thứ ba có vai trò đặc biệt. Ý thức tự giác của tộc người gắn với tộc danh không chỉ là là yếu tố cần thiết mà còn là yếu tố đấy đủ để bản sắc hóa tộc người. Khi có dấu hiệu thay đổi về ý thức tự giác của tộc người thì sẽ xuất hiện dấu hiệu thay đổi thành phần tộc người. Ở góc độ triết học, vấn đề tộc người không chỉ gói gọn trong quá trình thu thập, phân tích các dữ liệu nhân chủng học một cách trực quan mà còn phải nghiên cứu những nhân tố tự nhiên và lịch sử xã hội để làm rõ quá trình phát sinh của một tộc người. Tộc người với các hình thái kinh tế - xã hội như một cơ thể xã hội gồm tập thể những con người luôn thống nhất, có tên tự gọi (tên chính trị), chiếm một lãnh thổ nhất định (khởi nguyên là quyền sở hữu đất đai của một cộng đống) và cùng có những đặc điểm chung về ngôn ngữ và văn hóa. Lịch sử loài người với tính cách là tổng thể lịch sử của các cộng đồng. Quá trình hình thành nhà nước trong lịch sử nhân loại khởi đầu từ tộc người đã được Mác và Ăngghen đề cập trong các tác phẩm của mình. Ở đây có thể diễn giải quá trình đó theo theo bảng sau: Bảng 1: Thị tộc, bộ tộc -> tập đoàn người (có sự khác nhau về sở hữu) -> giai cấp (đấu tranh giai cấp -> Nhà nước Con người với tính cách là con người hiện thực, là chủ thể lịch sử có quá trình hình thành và phát triển gắn với sự biến đổi của các phương thức sản xuất trong những điều kiện địa lí tự nhiên nhất định. Chủ thể lịch sử khẳng định không gian sinh tồn của mình thông qua việc xác định chủ quyền lãnh thổ. Quá trình hình thành dân tộc trong lịch sử nhân loại bắt đầu từ mối quan hệ giữa con người với môi trường sống (theo Mác và Ăngghen) được diễn giải theo bảng sau: Bảng 2 Con người trong môi trường sống -> xác định chủ quyền lãnh thổ -> hợp nhất & phân li các hình thái cộng động người từ các nguyên nhân kinh tế, chính trị, văn hóa -> Dân tộc Ở điểm xuất phát, do chưa bị phân hóa nên mọi sự vật hiện tượng đều chưa có sự phân biệt. Qua quá trình vận động, những khác biệt dần dần lộ ra, từ đó dẫn đến những khoảng chênh về các giá trị. Lao động loài người cũng vậy. Hình thái kinh tế chiếm đoạt là phổ quát ở thời kì đầu tìm kiếm phương thức sống của nhân loại. Sản phẩm thời kì này chủ yếu do thu lượm từ tự nhiên. Khi nhận thấy những bất ổn của hình thức săn bắt, hái lượm con người chuyển sang các hình thức kiếm sống khác phù hợp với môi trường mà họ đang cư trú. Do những lợi thế về mặt địa hình và khí hậu, người Phương Tây chọn lối sống chăn dắt bầy đàn còn người phương Đông chọn lối sống trồng trọt (gồm nông nghiệp khô và nông nghiệp lúa nước). Sản phẩm thời kì này thu được từ nền sản xuất dựa vào môi trường tự nhiên. “Ngay từ xưa, đời sống của con người đã dựa vào sản xuất, dựa vào một kiểu nào đó của nền sản xuất xã hội”. (1) Nền sản xuất ở giai đoạn đầu tiên dù ở dạng này hay dạng khác thì cũng chỉ là nền sản xuất “tự nhiên”. Nhưng nó là tiền đề cho toàn bộ lịch sử nhân loại, bảo đảm sự tồn tại của cá nhân con người cho đến ngày nay. Lôgíc tất yếu của sự phát triển xã hội loài người trong nền sản xuất “tự nhiên” có thể tóm tắt như sau: Bảng 3: Môi trường sống (Yếu tố -> Phương thức kiếm sống -> Cách ứng xử với tự -> Đặc trưng văn hoá của -> Loại hình kinh tế, loại địa lí) (nghề thích hợp) nhiên và xã hội cộng đồng theo địa vực hình văn hóa Theo lôgíc này, lối sống chăn dắt bầy đàn ở phương Tây hình thành những hình thức thức sinh hoạt riêng biệt của cư dân du mục. Ở đó, chúng ta có thể khái quát thành những đặc trưng của nền văn hóa gốc du mục. Tương tự, lối sống trồng trọt ở phương Đông hình thành những hình thức thức sinh hoạt riêng biệt của cư dân nông nghiệp. Ở đó, chúng ta có thể khái quát thành những đặc trưng của nền văn hóa gốc nông nghiệp. Ở thời điểm này, trên thế giới đã xuất hiện nhiều dạng thức đặc trưng văn hoá nhưng hai loại hình văn hoá gốc du mục và gốc nông nghiệp là nổi trội nhất. Qua quá trình phát triển theo hướng tích hợp và tự sinh, hai loại hình văn hoá này đã tạo nên hai khu vực văn hoá lớn của nhân loại: phương Đông văn hoá và phương Tây văn hoá. Lịch sử nhân loại là một sự chuyển tiếp không ngừng nên khi xuất hiện nền sản xuất “tự nhiên”, xã hội loài người vẫn tồn tại hình thái kinh tế chiếm đoạt. Về sau, do phương thức sản xuất phát triển, con người dần tách khỏi sự chi phối của địa lí tự nhiên (khí hậu và địa hình từ yếu tố quyết định đối với sản xuất trở thành yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sản xuất). Con người tự tạo ra môi trường sản xuất công nghiệp đồng thời khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất. Trong giai đoạn này, xã hội loài người vẫn tồn tại hình thái kinh tế chiếm đoạt nhưng không còn phổ biến. Hình thái sản xuất “tự nhiên” vẫn tồn tại và dần dần được công nghiệp hoá. Từ đây, xã hội loài người có diện mạo phức tạp hơn hẳn thời kì trước đó. Văn hoá loài người trở nên đa dạng và có sự đan cài rất phức tạp giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản địa và ngoại lai, giữa cưỡng bức và tự nguyện. Có thể khái quát tiến trình phát triển có tính phức hợp này theo bảng sau: Bảng 4: Tiến trình lịch sử xã hội loài người -------------------------------------> Tiêu chí A B C Phương thức sản xuất (nhìn từ trình độ sản xuất) Sản phẩm thu được do chiếm đoạt môi trường tự nhiên A + Sản phẩm thu được từ nền sản xuất nuôi trồng dựa vào môi trường tự nhiên A + B + Sản phẩm thu được từ nền sản xuất công nghiệp trong môi trường nhân tạo Không giai cấp A + Có giai cấp A + Có giai cấp Nhà nước/ Tính chất nhà nước Không bóc lột A + bóc lột nguyên thủy A + B + bóc lột giá trị thặng dư Quan hệ sản xuất Chia xẻ A + Tướt đoạt A + B + Điều tiết theo hướng xã hội hoá Văn hóa – kinh tế Kiểu loại theo vùng miền địa lí A + Văn hoá gốc nông nghiệp, gốc du mục (phương Đông và phương Tây - giao A + B + Văn hoá công nghiệp, văn hoá hậu công nghiệp (hội nhập lưu tiếp biến) đa phương) Quá trình đa dạng hoá và phức tạp hóa của văn hoá -------------------------------------------------------> Cách tiếp cận từ góc độ triết học, lịch sử, xã hội cho thấy bản chất tộc người được hình thành trong các mối quan hệ cơ bản: nhà nước, dân tộc, kinh tế, văn hóa. Đây là những mối quan hệ đồng thời cũng là những yếu tố tổng quát để xem xét bản chất tộc người. Trong quá trình vận động, các tộc người luôn có ý thức xây dựng, phát triển đồng thời giữ gìn, bảo vệ nhà nước, dân tộc (tộc danh và ý thức về tộc người), kinh tế, văn hóa của cộng đồng mình. Đó cũng chính là quá trình giữ gìn bản sắc của một hoặc nhiều cộng đồng người có chung tộc danh (cũng có thể là quốc hiệu). Thực tế cho thấy, việc giữ gìn tộc người trước hết là giữ gìn tộc danh và ý thức về tộc người. Tức là những yếu tố thuộc lĩnh vực văn hoá, dân tộc chứ chưa phải lĩnh vực nhà nước. 2. Văn hóa tộc người. Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động toàn bộ cuộc sống con người trong suốt quá trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống bao gồm thẩm mĩ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản sắc riêng của mình. Văn hóa là tất cả những gì con người đã bỏ công sức để tạo ra; nó khác với những gì tồn tại trong tự nhiên ngoài con người. “Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” (2). Văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người bao gồm tri thức, tín ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, sinh hoạt … là sự thể hiện bản chất năng lực con người với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội. “Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (3) Nghiên cứu văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người cần phải xem xét trên cả trục đồng đại và lịch đại. Với sự liệt kê đầy đủ danh mục các hiện tượng văn hóa của một tộc người cho phép chúng ta có những nhận định sơ bộ về văn hóa tộc người cũng như bản sắc văn hoá tộc người. “Khi nói đến văn hóa tộc người là nói đến những khía cạnh tiêu biểu của tộc người đó tạo nên những nét khác biệt với văn hóa các tộc người khác” (4) Cũng cần thấy rằng văn hoá tộc người là một thực thể đa dạng và thống nhất. “Nếu coi thống nhất của văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn hóa vùng). Sẽ không có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa” (5). Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hiện tượng phổ quát của các tộc người. Mặt khác, sự vận động về mặt tinh thần và vật chất của chủ thể văn hoá luôn gắn với không gian thời gian cụ thể. Nhờ có quan hệ với tự nhiên và xã hội mà chủ thể văn hoá sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị, đồng thời nhờ đó mà chủ thể có thể thể hiện mình trước tự nhiên và xã hội. Văn hoá là sự thể hiện mình theo một cách riêng, trong điều kiện lịch sử cụ thể của một chủ thể văn hoá. Văn hoá theo hướng này có nghĩa là nét đặc thù về phong cách sống của tộc người. Nét đặc thù về phong cách sống của mỗi tộc người như là phương thức tái hiện những tập hợp tình cảm và lí trí nhằm khẳng định các giá trị chung của cộng đồng tộc người. Nói chung, nét đặc thù về phong cách sống là một biểu hiện của bản sắc văn hoá tộc người. 3. Bản sắc văn hóa tộc người. Thuật ngữ bản sắc được giải thích (theo nghĩa từ điển Hán Việt) như sau: bản là gốc, cái thuộc về phần mình, gốc đầu mọi việc; sắc là màu, vẻ, dung mạo. Bản sắc còn có một nghĩa khác là tính chất đặc biệt vốn có. Theo từ điển tiếng Anh, identity (bản sắc) có nghĩa là đồng nhất. Sự đồng nhất hoá làm nên bản sắc của một đối tượng. Với những nét nghĩa nêu trên, chắc chắn sẽ đưa đến nhiều cách giải thích khác nhau về cụm từ “bản sắc văn hoá”. Ở đây, có thể rút ra một số điểm đáng lưu ý từ nội dung của các định nghĩa vửa nêu như sau: - Bản sắc gắn với quá trình hình thành và phát triển của đối tượng. - Bản sắc thể hiện sự đồng nhất qua hàng loạt sự vật, hiện tượng. - Bản sắc chứa đựng những nét riêng để có thể nhận ra diện mạo và bản chất một đối tượng. - Bản sắc có xu hướng tiến tới đồng nhất hoá nên không phải là những cái riêng lẻ, chi tiết, vì vậy, càng khái quát càng dễ tiếp cận bản sắc của một đối tượng. Bản sắc bao hàm trong nó những tiêu chí đủ để xem xét BS của một nền văn hoá. BSVH được thể hiện trên cả hai bình diện vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, BSVH không phải là các sự vật hiện tượng cụ thể (tức văn hoá vật thể), cũng không phải là các phương thức về y dược, ẩm thực, âm nhạc, hội họa, ... (tức văn hoá phi vật thể). Do văn hóa luôn gắn với chủ thể nhất định nên bản sắc văn hoá chính là “cá tính” của chủ thể văn hoá. Tìm kiếm BSVH ở cấp độ dân tộc, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến vai trò của ý thức tộc người. Ý thức tộc người có quá trình hình thành phát triển gắn với quá trình sáng tạo, giao lưu, tiếp biến, giữ gìn, phát triển văn hoá của chủ thể văn hoá. Tộc người nào có một quá trình hình thành phát triển lâu dài, được nhân loại thừa nhận về mặt lịch sử chắc chắn tộc người đó có đủ “nội lực” để hình thành BSVH. BSVH, là những yếu tố ổn định, ít biến đổi nhất của một nền văn hoá. Nếu nó biến đổi với biên độ và tần số cao, theo những chiều hướng trái ngược nhau thì nền văn hoá đó trở thành không có bản sắc. Sự “ổn định, ít biến đổi” này cũng chỉ nằm trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. Trong thực tế, đa số các nền văn hoá trên thế giới đã tự “siêu chỉnh” bản sắc qua quá trình giao lưu và tiếp biến. Nói là “siêu chỉnh” bởi lẽ, đây là sự vận động nội tại, vận động chậm, quá trình vận động làm xuất hiện những biến đổi rất tinh tế, rất tự nhiên trong quan điểm và tư duy của chủ thể. Sự biến đổi dưới hình thức “siêu chỉnh” là biến đổi tích cực (trong lĩnh vực này, nếu xuất hiện hàng loạt biến đổi trên diện rộng và sâu thì đó là dấu hiệu bất thường). Những biến đổi tích cực sẽ giúp chủ thể luôn có diện mạo mới nhưng không đánh mất bản sắc của mình. BSVH không thể là cái bất biến bởi vì đã có không ít nền văn hoá tự đánh mất bản sắc của mình trước khi bị tiêu diệt hoặc bị đồng hoá. Tiếp cận BSVH có thể bằng nhiều cách thức khác nhau. Điều này liên quan đến mô hình và phương pháp nghiên cứu. Một số mô hình được dùng hiện nay là: mô hình cấu trúc chức năng, mô hình sinh thái học, mô hình sinh vật xã hội học, mô hình cấu trúc – hệ thống, mô hình mâu thuẫn xã hội ... Thực tế này đã đưa đến hệ quả là có một số lượng khá lớn định nghĩa về văn hoá và nhiều quan điểm khác nhau về BSVH. Dù sử dụng mô hình hay phương pháp nghiên cứu nào thì đối tượng nghiên cứu chính vẫn là con người với tư cách là chủ thể văn hoá. Mọi khác biệt chỉ có thể tìm thấy trong những hình thức “hiện thân” khác nhau của chủ thể văn hoá. Đó có thể là các tầng lớp giai cấp khác nhau trong xã hội, các tập thể sống theo các nghề nghiệp khác nhau, các cư dân trong từng khu vực địa lí tự nhiên khác nhau, các tộc người với những đặc điểm sinh học và di truyền khác nhau … Cách tiếp cận BSVH theo góc nhìn loại hình kinh tế - văn hóa, bằng phương pháp cấu trúc cho phép quan sát sự thích ứng của tộc người dưới tác động của môi trường sống (địa lí) và điều kiện sống (nghề nghiệp). Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy tính cách tộc người một phần được hình thành như một tất yếu khách quan, như một sản phẩm “tương thích” với môi trường sống. Tiếp cận BSVH ở góc độ dân tộc thì phải quan sát tộc người. Người ta có thể quan sát tộc người theo những bình diện khác nhau. Chẳng hạn như quan sát các đặc điểm sinh học và di truyền, quan sát sinh hoạt trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên, quan sát ý thức tộc người trong quá trình đối ngoại và đối nội… Qua quan sát, người ta thống kê, rút ra những kết quả thể hiện bản chất của đối tượng. Kết quả có thể dưới dạng những nhận xét, đánh giá về bản chất đối tượng. Cách tiếp cận BSVH ở bình diện ý thức tộc người, theo phương pháp logic hướng vào quan sát quan điểm, thái độ của chủ thể trước tác động của hiện thực khách quan và hiện thực lịch sử cho thấy tính cách tộc người được hình thành từ ý thức của cộng đồng dân tộc trước những biến động phức tạp của hiện thực lịch sử. Tổng hợp kết quả của các phương pháp nghiên cứu phổ biến, chúng tôi nhận thấy phương thức sống (gắn với hình thức lao động) cùng cung cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội của chủ thể văn hoá sẽ hình thành một kiểu loại đặc trưng văn hoá có tính đặc thù như đã trình bày ở trên. Khi phương thức sống thay đổi thì cung cách ứng xử với môi trường cũng thay đổi; theo đó, các đặc trưng văn hoá hình thành trên phương thức sống đó cũng sẽ thay đổi. Bản chất con người là “tổng hoà mọi quan hệ xã hội” nên ý thức người là một sản phẩm tổng hợp từ điều kiện sống và tính chất xã hội mà nó đang tồn tại. Vì vậy, BSVH tộc người chính là ý thức tộc người được tích hợp từ điều kiện sống và hình thức tồn tại cụ thể của cộng đồng cư dân có chung tộc danh. Quá trình này được mô tả theo bảng sau: Bảng 5: Phương thức sống -> Cung cách ứng xử với tự nhiên và xã hội -> Đặc trưng VH Môi trường Quá trình hình thành nhà nước, dân tộc ------------------------------------------> -> BSVH tộc người -> BSVH được nhận diện trên những bình diện nào? Đây là vấn đề không đơn giản, bởi vì BSVH là cái thuộc “phần chìm”, là ý thức của dân tộc được hình thành trong suốt trường kì lịch sử. Khi lần tìm BSVH, chúng ta chỉ có thể tập trung xem xét những biểu hiện cụ thể về quan điểm, thái độ của chủ thể. Những biểu hiện đó không phải do ngẫu nhiên và không có tính mục đích mà thường vận động theo một thiên hướng rõ ràng, gắn với những mối quan hệ cụ thể. Ẩn đằng sau những biểu hiện về quan điểm, thái độ là cốt cách, tinh thần của dân tộc. Cốt cách, tinh thần dân tộc được thể hiện trong các mối quan hệ của chủ thể văn hoá. Nó là sự tập hợp một cách có hệ thống các kiểu quan hệ đặc trưng của một chủ thể. Đó là những kiểu quan hệ ổn định, thể hiện được bản tính của cộng đồng. Những kiểu quan hệ này kết thành một “thể thống nhất diệu kì”, thể hiện trên mọi khía cạnh của cuộc sống, tạo nên “cá tính” của chủ nhân văn hoá. Nói cách khác, ở đó chúng ta có thể bắt gặp ý thức của tộc người. Đó là một thể thống nhất trong sự đa dạng các giá trị tinh thần của cộng đồng cư dân đã, đang cùng chung sống. Ý thức tộc người bao hàm sự tự khẳng định của cộng đồng qua trường kì lịch sử gồm cộng đồng kí ức, cộng đồng hiện tại và cả cộng đồng tương lai với những giá trị chính trị, đạo đức cùng khát vọng về sự phát triển. Ý thức tộc người vừa hòa nhập tự nhiên vào đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân vừa có khả năng tạo ra khoảng cách để xác lập đời sống riêng của tộc người. Ý thức tộc người, do vậy, là sản phẩm văn hoá đồng thời là điểm xuất phát của sáng tạo và gìn giữ văn hoá tộc người. Ý thức tộc người là nhân tố trực tiếp làm nên tinh thần, cốt cách của dân tộc. Vậy, tinh thần, cốt cách dân tộc thể hiện trong những mối quan hệ nào? Theo chúng tôi, có thể xác định tinh thần, cốt cách của một dân tộc qua 3 mối quan hệ: - - Quan hệ giữa chủ thể văn hoá với hiện thực khách quan (nhận thức và ứng xử với thế giới khách quan). - - Quan hệ giữa chủ thể văn hoá với môi trường xã hội, chủ yếu là quan hệ với văn hoá ngoại nhập (nhận thức và ứng xử với các yếu tố văn hoá ngoại nhập). - - Quan hệ giữa chủ thể văn hoá với chính sản phẩm của mình - văn hoá truyền thống (nhận thức và ứng xử với các yếu tố văn hoá truyền thống). Đây là những tiêu chí cơ bản dùng để xác định BSVH của một dân tộc. Trên thực tế, nhiều dân tộc có đủ 3 mối quan hệ trên nhưng khi đặt các quan hệ này trong hệ trục không gian, thời gian với những sự kiện văn hoá, chính trị, xã hội cụ thể thì quy mô, mức độ, tính chất của các mối quan hệ hoàn toàn khác nhau. Chính sự khác nhau đó làm nên nét khu biệt về BSVH của các dân tộc. Thí dụ BSVH Việt Nam phải được xem xét trong nhiều giai đoạn lịch sử nhưng nổi trội nhất vẫn là lịch sử chống ngoại xâm; kinh tế Việt Nam được xem xét qua nhiều hình thái nhưng cho đến nay kinh tế nông nghiệp lúa nước vẫn nổi trội; xã hội Việt Nam trải qua nhiều chế độ xã hội nhưng nổi trội vẫn là chế độ phong kiến tập quyền nhưng vẫn duy trì nền dân chủ làng xã; văn hoá Việt Nam giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hoá nhưng vẫn giữ nguyên tính chất Việt, đó là một nền văn hoá gắn với nền nông nghiệp sử dụng cơ bắp, liên tục chịu sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên và chiến tranh nhưng luôn biết đổi mới, vươn lên, giữ được sự kính trọng của láng giềng… Những giá trị truyền thống được hình thành thành trong quá khứ nhưng đến nay vẫn còn có tác dụng tích cực và đang được nhà nước, dân tộc gìn giữ vị tất thuộc về BSVH dân tộc. Vấn đề này chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi trong một bài khác với chủ đề “Bản sắc văn hoá Việt Nam”. Chú thích: (1) C.Mác, Tư Bản, Phê phán khoa kinh tế chính trị, Nxb. Sự Thật, Hà Nội. 1973, Q. 1, tr. 346 (2) Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr. 27 (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.431 (4) htm (5) Ngô Đức Thịnh, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006, tr.845

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvanhoahoc_90__6514.pdf
Tài liệu liên quan