Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.
Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, 
khối lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi.
Những phát minh đó chứng minh rằng sự đồng nhất vật chất với những 
dạng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như quan 
niệm duy vật trước Mác đã không còn phù hợp nữa và trở thành căn cứ 
để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng 
"vật chất đã tiêu tan", và toàn bộ nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã bị 
sụp đổ hoàn toàn. Cuộc “khủng hoảng của vật lý học” xuất hiện.
Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ: Những phát minh có 
giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật 
mà chỉ bác bỏ quan niệm cho rằng giới tự nhi ên là có tận cùng về mặt 
cấu trúc, rằng nguyên tử hay khối lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến 
của giới tự nhiên. Lênin đã chỉ ra rằng, không phải "vật chất tiêu tan"
mất, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. 
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc “khủng hoảng của vật lý 
học”và phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật 
chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất 
mà cho đến nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Đề tài Vật chất và ý thức - Vật chất và ý thức trong triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC - VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 
TRONG TRIẾT HỌC 
1. Tồn tại của thế giới và sự thống nhất của thế giới 
1.1. Tồn tại của thế giới là tiền đề của sự thống nhất của thế giới 
Vấn đề “tồn tại” và “không tồn tại” đã được đặt ra ngay từ trong triết 
học cổ đại phương Đông và phương Tây. Trong việc nhận thức thế giới, 
vấn đề đầu tiên nảy sinh với tư duy triết học là: Thế giới quanh ta có 
thực hay chỉ là sản phẩm thuần túy của tư duy con người? Thế giới có 
tồn tại hay không? Và vấn đề mà nhận thức triết học phải đi tới là quan 
niệm về sự tồn tại của thế giới. Không thừa nhận sự tồn tại của thế giới 
thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới. 
Chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà 
bản chất của nó là vật chất. Còn các nhà duy tâm tìm nguồn gốc và bản 
chất của tồn tại ở cái tinh thần, cho rằng chỉ thế giới tinh thần mới là 
tồn tại. Hêghen coi bản chất của tồn tại là cái tinh thần vì giới tự nhiên 
cũng chỉ là tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề 
cho sự thống nhất của nó, song sự thống nhất của thế giới không phải ở 
sự tồn tại của nó. Sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy vật và chủ 
nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tính 
thống nhất của thế giới, mà ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của 
sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Quan điểm này thể 
hiện tính nhất nguyên duy vật triệt để, dựa trên sự tổng kết những 
thành tựu nhân loại đã đạt được trong hoạt động thực tiễn, trong triết 
học cũng như trong khoa học. 
1.2. Tính thống nhất vật chất của thế giới 
Có 2 khuynh hướng cơ bản về vấn đề này: 
- Chủ nghĩa duy tâm coi tinh thần, ý thức có trước, quyết định vật chất 
nên tính thống nhất của thế giới là ở ý thức, ở các lực lượng tinh thần 
siêu nhiên. 
- Chủ nghĩa duy vật coi vật chất có trước, ý thức có sau, ý thức là sự 
phản ánh của thế giới vật chất nên sự thống nhất của thế giới là ở tính 
vật chất. Bằng sự phát triển lâu dài của triết học và sự phát triển khoa 
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng thế giới xung 
quanh chúng ta dù đa dạng và phong phú đến đâu thì bản chất của nó 
vẫn là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Bởi vì: 
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, là thế giới vật 
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. 
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống 
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật 
chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật 
khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. 
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được 
sinh ra và không tự mất đi; chúng luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, 
là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau. 
2. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất 
2.1. Định nghĩa phạm trù vật chất 
Vật chất với tính cách là một phạm trù triết học ra đời trong triết học 
Hy Lạp cổ đại. Ngay từ đầu, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc 
đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa 
duy tâm. Nhưng phạm trù vật chất được hiểu rất khác nhau, phụ thuộc 
vào sự phát triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn trong từng thời 
kỳ lịch sử của nhân loại. 
2.1.1. Quan điểm duy tâm 
Coi thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh 
thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối” hoặc 
là do ý thức của chủ thể quyết định. 
2.1.2. Quan niệm duy vật 
Coi vật chất là thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của tất cả các sự vật, 
hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. 
- Quan niệm duy vật cổ đại về vật chất mang tính trực quan, cảm tính, 
thể hiện ở sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó, tức là 
những sự vật cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại như: Đất, 
nước, lửa, không khí, apâyrôn... Đỉnh cao trong quan niệm vật chất cổ 
đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit, thừa nhận thực thể của 
thế giới là nguyên tử. 
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước 
phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm 
trù vật chất, tạo cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy 
nhiên, đó mới chỉ là những phỏng đoán giả định. 
- Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII - XVIII: Việc coi 
nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia 
được, tách rời vận động, không gian và thời gian vẫn là một quan niệm 
phổ biến. Chính Galilê, Đềcác, Bêcơn, Hôpxơ...đã khẳng định và phát 
triển quan niệm này. 
- Sang thế kỷ XIX, các nhà triết học và khoa học tự nhiên do không hiểu 
phép biện chứng duy vật vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử, hoặc 
với một thuộc tính phổ biến của các vật thể là khối lượng. 
- Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong vật lý học hiện đại xuất hiện 
những phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết 
mới, sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất. 
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X 
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. 
 Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử. 
Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, 
khối lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi. 
Những phát minh đó chứng minh rằng sự đồng nhất vật chất với những 
dạng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như quan 
niệm duy vật trước Mác đã không còn phù hợp nữa và trở thành căn cứ 
để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng 
"vật chất đã tiêu tan", và toàn bộ nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã bị 
sụp đổ hoàn toàn. Cuộc “khủng hoảng của vật lý học” xuất hiện. 
Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ: Những phát minh có 
giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật 
mà chỉ bác bỏ quan niệm cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về mặt 
cấu trúc, rằng nguyên tử hay khối lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến 
của giới tự nhiên. Lênin đã chỉ ra rằng, không phải "vật chất tiêu tan" 
mất, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. 
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc “khủng hoảng của vật lý 
học”và phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật 
chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất 
mà cho đến nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận. 
2.1.3. Định nghĩa vật chất của Lênin 
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan 
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng 
ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". 
- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, 
rộng nhất mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua 
được” nên không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp thông 
thường, đem quy nó về một vật thể, một thuộc tính hoặc vào một 
phạm trù rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử dụng phương pháp 
mới để định nghĩa vật chất là đem đối lập vật chất với ý thức và xác 
định nó “ là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây nên 
cảm giác”. 
Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết 
học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những 
thuộc tính cụ thể của các dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một 
phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, 
không mất đi. 
 - Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong 
nhận thức luận thì cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là thuộc 
tính khách quan. "Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con 
người trong cảm giác.. .và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". 
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản 
sau: 
1. Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan 
bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức. 
2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên 
cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan 
con người. 
3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ýthức 
con người là sự phản ánh thực tại khách quan, nghĩa là con người có 
khả năng nhận thức được thế giới. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 vat_chat_va_y_thuc1_8762.pdf vat_chat_va_y_thuc1_8762.pdf