Hiện tại điều trị ung thư tuyến tiền liệt đang là vấn đề nổi bật trong 
giới chuyên môn cũng như trong công chúng. Ung thư tuyến tiền liệt hiếm 
khi được chẩn đoán trước tuổi 50 và tần suất bệnh cao nhất ở lứa tuổi từ 60 
đến 80
(0)
. Trong dân số, tỷ lệ người cao tuổi đang tăng dần nên số lượng nam 
giới có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt cũng tăng theo. Tại Việt Nam phần 
lớn bệnh ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở giai đoạn trễ không còn chỉ 
định phẫu thuật triệt để. Xạ trị, một công cụ sử dụng rộng rãi trong điều trị 
ung thư tuyến tiền liệt tại các nước tiên tiến, vẫn chưa thể áp dụng có hiệu 
quả trong nước. Vì vậy, điều trị nội tiết trong ung thư tuyến tiền liệt hầu như 
vẫn là phương tiện duy nhất ở nước ta. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 37 trang
37 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Điều trị nội tiết trong ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn trễ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT 
TRONG UNG THƯ 
TUYẾN TIỀN LIỆT GIAI 
ĐOẠN TRỄ 
ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT TRONG UNG THƯ 
TUYẾN TIỀN LIỆT GIAI ĐOẠN TRỄ 
Hiện tại điều trị ung thư tuyến tiền liệt đang là vấn đề nổi bật trong 
giới chuyên môn cũng như trong công chúng. Ung thư tuyến tiền liệt hiếm 
khi được chẩn đoán trước tuổi 50 và tần suất bệnh cao nhất ở lứa tuổi từ 60 
đến 80(0). Trong dân số, tỷ lệ người cao tuổi đang tăng dần nên số lượng nam 
giới có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt cũng tăng theo. Tại Việt Nam phần 
lớn bệnh ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở giai đoạn trễ không còn chỉ 
định phẫu thuật triệt để. Xạ trị, một công cụ sử dụng rộng rãi trong điều trị 
ung thư tuyến tiền liệt tại các nước tiên tiến, vẫn chưa thể áp dụng có hiệu 
quả trong nước. Vì vậy, điều trị nội tiết trong ung thư tuyến tiền liệt hầu như 
vẫn là phương tiện duy nhất ở nước ta. 
Nhắc lại hoạt động của trục hạ đồi tuyến yên và chuyển hoá của 
testosterone trong tuyến tiền liệt 
Tuyến tiền liệt là một cơ quan nhạy cảm với nội tiết tố sinh dục nam. 
Kích thước và chức năng bài tiết của nó phụ thuộc vào testosterone. LHRH 
(luteinizing hormone releasing hormone) và CRF (corticotropin releasing 
factor) được sản xuất ở hạ đồi sẽ tác động lên tuyến yên để tiết ra LH 
(luteinizing hormone) và ACTH (adreno-corticotropin hormone) 
LH điều khiển tế bào Leydig của tinh hoàn tạo ra 95% lượng 
testosterone trong cơ thể, nồng độ testosterone trong huyết tương người 
trưởng thành khoảng 11 - 33 nmol/l. Ở tuổi 70, nồng độ testoterone trung 
bình khoảng 18 nmol/l. 98% lượng testosterone lưu hành trong huyết thanh 
gắn kết với các proteins huyết tương, chủ yếu là Albumin (40% lượng 
testosterone lưu hành) và globulin gắn kết hormone giới tính SHBG (sex 
hormone binding globulin): (55% lượng testosterone lưu hành). Chỉ 2% 
lượng testosterone ở dạng tự do và chính lượng testosterone này quyết định 
hoạt động của các tế bào nhạy với androgen, trong đó có tế bào của tuyến 
tiền liệt. 
Testosterone tự do khuếch tán vào tế bào, dưới tác động của NADP 
cùng với men 5 a reductase, sẽ biến đổi thành nhiều chất chuyển hoá bao 
gồm: 5a-androstane-3a, 17b-diol-3a-diol, 5a-androstane-b, 17b-diol-3-bdiol, 
androstenedione, 5a-androstenedione, androsterone và 5a-androstane-17b-
ol-3-one (dihydrotestosterone - DHT). Trong các chất chuyển hoá kể trên, 
DHT là chất hoạt động nhất, quyết định sự phát triển và chức năng của tuyến 
tiền liệt. Mỗi ngày tinh hoàn sản xuất 7000mg testosterone nhưng chỉ 500 
mg testosterone được chuyển đổi thành DHT ở tuyến tiền liệt và các mô 
ngoại biên như túi tinh, tuyến bã. Tại tuyến tiền liệt, quá trình này xảy ra chủ 
yếu trong các tế bào của mô đệm (stroma). Sau đó DHT được chuyên chở 
đến các tế bào biểu mô tuyến. Men 5a-reductase (một phức hợp gồm 5 men: 
a-reductase, 3a-reductase, 3b-reductase, 3a-hydroxysteroid dehydrogenase, 
3b-hydroxysteroid dehydrogenase) có hai isoenzyme: type 1 nằm trên nhánh 
ngắn của nhiễm sắc thể số 5, type 2 nằm trên nhánh ngắn của nhiễm sắc thể 
số 2. Isoenzyme type 2 là men hoạt động chủ yếu trong tuyến tiền liệt(36). 
DHT là một androgen có hoạt tính nội tiết nam mạnh hơn testosterone 
từ 5- 10 lần. Nồng độ DHT trong huyết thanh nhỏ hơn nồng độ testosterone 
lưu hành trong máu khoảng 10 lần, nhưng trong tuyến tiền liệt thì lại cao 
hơn năm lần. Trong tế bào của tuyến tiền liệt, DHT gắn kết với các thụ thể 
đặc hiệu của androgen, hoạt hoá các thụ thể này để điều tiết hoạt động của 
ADN và ARN. 
Điểm lại các mốc thời gian quan trọng trong lịch sử điều trị nội tiết 
ung thư tuyến tiền liệt 
Điều trị nội tiết trong ung thư tuyến tiền liệt có bề dày lịch sử trên 50 
năm. Năm 1941, Huggins và Hodges lần đầu tiên công bố giá trị của cắt tinh 
hoàn và estrogen trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn. Trong 
suốt gần 30 năm kế tiếp sau khám phá lich sử này, cắt tinh hoàn và estrogen 
được xem như những cách điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư tuyến 
tiền liệt giai đoạn muộn. Năm 1971, Schally phân lập được chất đồng vận 
LHRH và ứng dụng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt khiến cho vai trò của 
cắt tinh hoàn và estrogen lu mờ dần(42). Năm 1983, Trachtenberg ghi nhận 
hiện tượng “bùng phát” của ung thư tuyến tiền liệt khi điều trị với chất đồng 
vận LHRH, có khả năng gây chèn ép tủy hoặc bí tiểu cấp tính(43). Các chất 
kháng androgen như cyproterone acetate, flutamide và bicalutamide cũng 
được áp dụng dưới dạng đơn liệu pháp (monotherapy) để điều trị ung thư 
tuyến tiệt liệt trong những năm 1980 nhưng hiệu quả vẫn không bằng sử 
dụng Diethylstibestrone hoặc chất đồng vận LHRH. Năm 1982 Labrie là tác 
giả đầu tiên đề nghị kết hợp loại bỏ tinh hoàn (bằng nội khoa hoặc ngoại 
khoa) với một chất kháng androgen không steroid để điều trị ung thư tuyến 
tiền liệt. Phương thức điều trị này hiện vẫn còn gây tranh cãi khá nhiều về 
tính hiệu quả của nó. Cuối cùng, vào năm 1995, Goldenberg đưa ra khái 
niệm điều trị nội tiết từng đợt để giảm thiểu cho bệnh nhân các tác dụng phụ 
cũng như phí tổn của điều trị nhưng vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi(0). 
Cắt hai tinh hoàn: một phương tiện đơn giản và hiệu quả 
Cắt hai tinh hoàn đã được sử dụng trong niệu khoa từ cuối thế kỷ 19 
để điều trị phì đại tuyến tiền liệt. 1895 William White nhận xét thấy sau khi 
cắt hai tinh hoàn kích thước tuyến tiền liệt nhỏ đi trong 87% trường hợp và 
triệu chứng tiểu khó cải thiện ở 50% bệnh nhân(0). Đến 1941, Huggins là 
người đầu tiên áp dụng phẫu thuật này trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. 
Vì 90-95% lượng testosterone được tổng hợp và sản xuất ở tinh hoàn nên cắt 
hai tinh hoàn được xem như một phương pháp điều trị nội tiết hợp lý, hiệu 
quả và đơn giản. Ngoài ra, cắt hai tinh hoàn vẫn được xem là “tiêu chuẩn 
vàng” mỗi khi cần so sánh đối chiếu với các phương thức điều trị nội tiết 
khác(0). Thời gian để testosterone trong máu giảm xuống còn dưới 2 nmol/l 
(50 ng/dl) - “mức testosterone của loại bỏ tinh hoàn” - khoảng 3 đến 12 giờ 
(trung bình là 8,6 giờ) nên cắt hai tinh hoàn rất hiệu quả trong những trường 
hợp bí tiểu cấp, thận ứ nước hai bên do tắc nghẽn và nhất là khi ung thư di 
căn đe dọa chèn ép tủy(28). Sau cắt hai tinh hoàn, các triệu chứng chủ quan và 
khách quan cải thiện ở 73% bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn trễ 
làm tăng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Triệu chứng đau do di căn 
xương cũng mất đi ở 80-90% bệnh nhân và kích thước của khối u ác tính 
trong tiền liệt tuyến giảm đi nhanh chóng trong 4 đến 6 tuần. Theo một số 
nghiên cứu, sau cắt hai tinh hoàn tỷ lệ bệnh thoái lui khoảng 20% - 57%, 
thời gian trung bình ung thư tiến triển trở lại khoảng 7,7 đến 18,5 tháng và 
thời gian sống trung bình của bệnh nhân khoảng 16 đến 35,5 tháng sau điều 
trị. Tỷ lệ sống 5 năm của bệnh nhân thay đổi từ 12% đến 53%. Nhưng chưa 
có nghiên cứu nào ghi nhận được cắt hai tinh hoàn có thể kéo dài thêm đời 
sống của bệnh nhân ung thư giai đoạn trễ. Các bất lợi của việc cắt hai tinh 
hoàn bao gồm mất cảm hứng tình dục, liệt dương, nóng bừng cơ thể (hot 
flush) (gặp ở 70% bệnh nhân) và rối loạn tâm lý(18). Một số tác giả ưa thích 
cắt hai tinh hoàn dưới bao (subcapsular) vì hiệu quả tương tự và có tính 
thẩm mỹ hơn cắt hai tinh hoàn toàn bộ(8). 
Estrogen: hiệu quả & tác dụng phu 
Những năm đầu thập niên 1940, một số tác giả đã đề cập đến khả 
năng ức chế sự phát triển ung thư tuyến tiền liệt của estrogen và dùng 
estrogen như một hình thức “loại bỏ tinh hoàn bằng nội khoa” cho những 
bệnh nhân không đồng ý điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng cắt hai tinh 
hoàn. Huggins giải thích việc estrogen có thể làm giảm lượng acid 
phosphatase ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt là do “tác động trực tiếp trên 
biểu mô tuyến của tuyến tiền liệt, bất hoạt các androgens, ức chế các chất 
hướng sinh dục của tuyến yên và ức chế các tế bào kẽ của tinh hoàn”. Ngày 
nay cơ chế hoạt động của estrogen đã được làm rõ. Estrogen tác động phản 
hồi (feedback) lên tuyến yên, gây ức chế sự bài tiết các chất nội tiết hướng 
sinh dục (gonadotropins) từ đó làm giảm lượng testosterone do tế bào 
Leydig của tinh hoàn tạo ra. Tuy nhiên nó không khống chế được 5% lượng 
testosterone có nguồn gốc từ thượng thận(27). Một số cơ chế phụ khác của 
estrogen như khả năng tác động trực tiếp lên tế bào Leydig và gây độc cho tế 
bào ung thư ở tuyến tiền liệt được nêu ra nhưng chưa được chứng minh rõ 
ràng(27). Theo Lin BJT với liều 3mg diethylstilbestrol/ngày, thời gian đạt 
được “mức testosterone của loại bỏ tinh hoàn” thay đổi từ 21 đến 60 ngày 
(trung bình là 38,3 ngày) chậm hơn 107 lần so với cắt hai tinh hoàn. Sau khi 
sử dụng diethylstilbestrol trên 3 năm thì có thể ngưng thuốc hoàn toàn mà 
không hề làm tăng lượng testosterone trong máu. Điều này chứng tỏ nếu 
dùng estrogen lâu dài sẽ hủy hoại vĩnh viễn khả năng sản xuất testosteron 
của tế bào Leydig. Khi điều trị ung thư tuyến tiền liệt đã di căn xương bằng 
estrogen, tỷ lệ sống của bệnh nhân ở thời điểm 1 năm là 78% và ở thời điểm 
5 năm là 20-30%. So với cắt hai tinh hoàn, tỷ lệ sống của bệnh nhân sử dụng 
estrogen ở thời điểm 5 năm hoàn toàn không khác biệt về mặt thống kê. 
Năm 1967, công trình VACURG (thử nghiệm trên 2052 bệnh nhân 
ung thư tuyến tiền liệt, khuyến cáo không nên sử dụng liều 
diethylstilbestrol 5mg/ngày vì có rất nhiều tác dụng phụ nguy hiểm trên hệ 
tim mạch. Đến năm 1970, công trình VACURG (kết luận liều 
diethylstilbestrol 1mg/ngày ít có tác dụng phụ hơn mà vẫn đạt hiệu quả như 
liều 5mg/ngày. Năm 1988, Byar và Corle cập nhật và tổng kết lại số liệu 
của các công trình VACURG cũng đưa ra nhận xét tương tự, nhưng nhấn 
mạnh thêm rằng liều diethylstilbestrol 1mg/ngày vẫn có nguy cơ bị những 
tác dụng phụ nguy hiểm như suy tim sung huyết, huyết khối tĩnh mạch sâu, 
nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não... Năm 1995, tổng kết cuối cùng 
của công trình EORTC 30805 vẫn đưa ra kết luận tương tự về liều 
diethylstilbestrol 1mg/ngày. Cơ chế của những tác dụng phụ này là do sau 
khi uống estrogen, nồng độ estrogen tăng cao trong tĩnh mạch cửa, từ đó sẽ 
ảnh hưởng lên những protein huyết tương do gan sản xuất làm giảm 
antithrombin III, tăng yếu tố đông máu VII và X. Ngoài ra estrogen còn 
thay đổi chức năng tiểu cầu và thành phần của các chất lipid trong huyết 
thanh. 
Một số tác giả cho rằng với liều 3mg diethylstilbestrol/ngày mới có thể 
đạt được “mức testosterone của loại bỏ tinh hoàn”, còn liều diethylstilbestrol 
1mg/ngày không thể hạ thấp testosterone trong máu xuống dưới 50ng/dl được. 
Vì vậy, tác giả Beck đề nghị nên khởi đầu điều trị với liều diethylstilbestrol 
1mg/ngày và nếu thấy dấu hiệu bệnh tiến triển thêm thì phải kiểm tra lại lượng 
testosterone trong máu để điều chỉnh tăng liều estrogen. Hiện nay liều 
diethylstilbestrol 1mg x 3 lần/ngày được xem như liều lượng tiêu chuẩn trong 
các nghiên cứu điều trị ung thư tuyến tiền liệt có sử dụng diethylstilbestrone(27). 
Gần đây một số thử nghiệm điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn trễ 
bằng estrogen đường tiêm chích (polyestradiol phosphate tiêm bắp hoặc 
diethylstilbestrol diphosphate tiêm tĩnh mạch) thấy rằng hiệu quả không khác 
estrogen uống nhưng tác dụng phụ trên hệ tim mạch giảm đi rất nhiều do 
estrogen không gây ra những tác động lên các yếu tố đông máu do gan san 
xuất(23). Đây là một hướng đi mới đầy hứa hẹn của loại nội tiết tố này trong 
điều trị ung thư tuyến tiền liệt. 
Ức chế androgen kết hợp: một vấn đề còn nhiều tranh cãi 
Năm 1945, Huggins và Scott nhận thấy vai trò của androgen tạo ra từ 
tuyến thượng thận nên đã tiến hành cắt tuyến thượng thận hai bên cho bốn bệnh 
nhân ung thư tuyến tiền liệt thất bại với điều trị nội tiết. Mặc dù bệnh nhân có 
những đáp ứng ngoạn mục nhưng phẫu thuật này khá phức tạp và gây nhiều tai 
biến nên không được hoan nghênh. Một số tác giả thử nghiệm sử dụng các chất 
ức chế hoạt động của tuyến thượng thận như Cortisol liều cao hoặc 
Aminoglutethimide nhưng lại có nhiều tác dụng phụ độc hại. Năm 1977 Bracci 
lần đầu tiên kết hợp cắt hai tinh hoàn với một chất kháng androgen 
(Cyproterone acetate) để điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Nhưng chỉ đến 1982, 
khi Labrie và cộng sự công bố ưu điểm của việc sử dụng chất đồng vận LHRH 
cùng lúc với một chất ức chế androgen trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt và 
đưa ra thuật ngữ “ức chế androgen kết hợp” (combined androgen blockade), 
mới làm bùng phát hàng loạt công trình nghiên cứu để đánh giá phương thức 
điều trị mới này. 
Cho đến nay, có 2 giả thuyết giải thích việc ung thư tuyến tiền liệt tiến 
triển trở lại sau khi điều trị nội tiết đơn liệu pháp. Giả thuyết thứ nhất cho rằng 
phần lớn các tế bào ung thư của tuyến tiền liệt phụ thuộc vào androgen và cần 
một lượng lớn DHT để phát triển. Các tế bào này có thể ức chế được bằng loại 
bỏ hai tinh hoàn (nội khoa hoặc ngoại khoa). Nhưng còn một số tế bào ung thư 
khác nhạy với androgen, vẫn hoạt động được nhờ một lượng nhỏ androgen từ 
tuyến thượng thận. Đây chính là cơ sở cho Labrie đưa ra cách điều trị ức chế 
androgen kết hợp. Mô hình bướu Shionogi mô phỏng của ung thư tuyến tiền 
liệt cũng cho thấy các tế bào ung thư thật sự có nhiều mức độ đáp ứng khác 
nhau với androgen. Tuyến thượng thận sản xuất một lượng lớn các tiền chất 
chưa hoạt động của steroid như dehydroepiandrosterone (DHEA), 
dehydroepiandrosterone sulfate (DHEA-S: nồng độ trong huyết tương nam 
giới cao hơn nồng độ testosterone từ 100 đến 500 lần) và androstenedions 
(D4-dione). Các chất này sẽ chuyển đổi thành những androgen hoạt động 
trong các mô ngoại biên bao gồm cả tuyến tiền liệt. Sau khi cắt hai tinh 
hoàn, mặc dù nồng độ testosterone trong máu giảm đi 95% nhưng nồng độ 
huyết thanh của các chất chuyển hoá chủ yếu của androgen như 5a-
androstane-3a, 17b-diol-3a.-diol, androsterone… chỉ giảm đi 50% -70%. 
Đáng chú ý nhất là nồng độ DHT trong tế bào tuyến tiền liệt vẫn còn khoảng 
40% so với người không cắt hai tinh hoàn cùng lứa tuổi. Điều này cho thấy 
không cần vai trò của testosterone ở tinh hoàn, các tiền chất steroid của 
tuyến thượng thận vẫn tạo ra được DHT trong tế bào tuyến tiền liệt. Lượng 
DHT này đủ để kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư nhạy với 
androgen. Một giả thuyết khác lại cho rằng các tế bào ung thư của tuyến tiền 
liệt gồm 2 dòng: 1 dòng nhạy với androgen và 1 dòng khác hoàn toàn đề 
kháng với androgen. Ellis và Isaacs đã chứng minh giả thuyết này trên mô 
hình bướu Dunning mô phỏng của ung thư tuyến tiền liệt và kết luận sự kết 
hợp ức chế androgen không hiệu quả hơn loại bỏ 2 tinh hoàn đơn thuần. 
Trong những báo cáo liên quan đến ức chế androgen kết hợp, chỉ có 3 
nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên có nhóm chứng (bảng 1) và một phân tích 
meta (bảng 3) cho thấy hiệu quả rõ rệt của cách điểu trị này. Các công trình 
còn lại (bảng 2 và bảng 3) đều đưa ra một nhận định chung là kết hợp ức chế 
andogen trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn không mang lại 
hiệu quả đáng kể so với các hình thức loại bỏ hai tinh hoàn thuần tuý khác. 
Ngoài ra giữa các chất đồng vận LHRH (Leuprolide hoặc Goserelin acetate) 
và giữa các chất kháng androgen (Flutamide hoặc Bicalutamide) khi dùng 
trong kháng androgen kết hợp đều có hiệu quả ngang nhau (bảng 3 và bảng 
4). 
Bảng 1. Các nghiên cứu cho thấy ức chế andogen kết hợp có sự khác 
biệt thống kê (p<0.05) về thời gian trung bình bệnh tiến triển trở lại và thời 
gian sống trung bình của bệnh nhân 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm nghiên 
cứu & nhóm 
chứng) 
Số 
bệnh 
nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
Crawford(11) Leuprolide 
+ Flutamide 
Leuprolide 
+ Placebo 
603 16,5 
13,9 
35,6 
28,3 
Không 
nêu ra 
Janknegt(25) Cắt hai 
tinh hoàn + 
Nilutamide 
Căt hai 
tinh hoàn + 
placebo 
423 20,8 
14,7 
37,1 
29,8 
35 
Denis(0) Goserelin 
acetate + 
Flutamide 
Cắt hai 
tinh hoàn 
327 20,7 
13 
34 
27 
86 
Bảng 2. Các nghiên cứu cho thấy ức chế andogen kết hợp không có 
sự khác biệt thống kê (p>0.05) về thời gian trung bình bệnh tiến triển trở lại 
và thời gian sống trung bình của bệnh nhân 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
Tyrell(0) Gorserelin 
acetate + 
Flutamide 
Gorserelin 
acetate 
571 25 
31,7 
34,9 
34,9 
24 
Fourcade(0) Gorserelin 
acetate + 
Flutamide 
Gorserelin 
acetate + 
245 21 
18 
35 
36 
48 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
placebo 
Boccardo(0) Gorserelin 
acetate + 
Flutamide 
Gorserelin 
acetate 
373 24 
18 
34 
32 
24 
Iversen(24) Gorserelin 
acetate + 
Flutamide 
Cắt hai 
262 16,5 
16,8 
22,7 
27,6 
57 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
tinh hoàn 
Eisenberg(0) Cắt hai 
tinh hoàn + 
Flutamide 
Cắt hai 
tinh hoàn 
1376 20,4 
28,6 
33,5 
29,9 
50 
Brisset(7) Cắt hai 
tinh hoàn + 
Nilutamide 
Cắt hai 
127 13 
13 
22 
24 
Không 
nêu ra 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
tinh hoàn + 
placebo 
Beland(5) Cắt hai 
tinh hoàn + 
Nilutamide 
Cắt hai 
tinh hoàn + 
placebo 
194 12 
12 
24,3 
18,9 
18-48 
De Voogt(0) Buserelin 
+ Cyproterone 
368 15 24 68 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
Acetate (CPA) 
Cắt hai 
tinh hoàn 
15 24 
Di 
Silverio(0) 
Goserelin 
acetate + CPA 
Goserelin 
acetate 
328 12,4 
12,7 
Không 
khác biệt 
58 
Robinson(35) Cắt hai 
tinh hoàn + CPA 
328 Không 
khác biệt 
Không 
khác biệt 
48 
Tác gia Thiết kế 
nghiên cứu 
(nhóm 
nghiên cứu & 
nhóm chứng) 
Số 
bệnh nhân 
Thời 
gian trung 
bình bệnh 
tiến triển 
trở lại 
(tháng) 
Thời 
gian sống 
trung bình 
của bệnh 
nhân 
(tháng) 
Thời 
gian theo 
dõi trung 
bình của 
nghiên cứu 
(tháng) 
Cắt hai 
tinh hoàn DES 
1mg/ngày 
Bảng 3. Các phân tích meta tổng hợp số liệu của các nghiên cứu ngẫu 
nhiên có nhóm chứng về hiệu quả của ức chế androgen kết hợp 
Tác gia Thiết kế của phân tích 
meta 
Kết luận 
Nhóm 
cộng tác các 
nghiên cứu ung 
Tổng hợp số liệu của 22 
nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm 
chứng so sánh giữa loại bỏ hai tinh 
Tỷ lệ sống 5 năm sau điều 
trị là 26,2% ở nhóm ức chế 
androgen kết hợp so với 22,8% ở 
Tác gia Thiết kế của phân tích 
meta 
Kết luận 
thư tuyến tiền 
liệt(0) 
hoàn (nội khoa hoặc ngoại khoa) 
với ức chế androgen kết hợp (loại 
bỏ hai tinh hoàn + thuốc kháng 
androgen) trên tổng số 5710 bệnh 
nhân 
nhóm loại bỏ hai tinh hoàn 
(p>0.05) 
Kết quả điều trị của ức chế 
androgen kết hợp: giữa các hình 
thức loại bỏ tinh hoàn và giữa 
các thuốc kháng androgen không 
có sự khác biệt 
Caubet 
JF(8) 
Tổng hợp số liệu của 13 
nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm 
chứng so sánh giữa loại bỏ hai tinh 
hoàn (nội khoa hoặc ngoại khoa) 
với ức chế androgen kết hợp (loại 
bỏ hai tinh hoàn + thuốc kháng 
androgen không steroid) trên tổng 
số 3439 bệnh nhân 
Ơặ nhóm sử dụng ức chế 
androgen kết hợp, tỷ lệ sống của 
bệnh nhân tăng hơn 22% và tỷ lệ 
bệnh tái phát sau điều trị ít hơn 
26% so với nhóm loại bỏ hai tinh 
hoàn (p<0.001) 
Tác gia Thiết kế của phân tích 
meta 
Kết luận 
Bertagna 
C(0) 
Tổng hợp số liệu của 7 
nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm 
chứng so sánh giữa cắt hai tinh 
hoàn với ức chế androgen kết hợp 
(cắt hai tinh hoàn + Nilutamide) 
trên tổng số 1056 bệnh nhân 
Ơặ nhóm ức chế androgen 
kết hợp, thời gian bênh tái phát 
chậm hơn 5,5 tháng (p=0.134) và 
thời gian sống trung bình của 
bệnh nhân kéo dài hơn 3,1 tháng 
(p=0,153) so với nhóm cắt hai 
tinh hoàn 
Bảng 4. Các nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm sử dụng kháng 
androgen kết hợp để so sánh hiệu quả giữa các chất đồng vận LHRH và giữa 
các chất kháng androgen với nhau 
Tác gia Thiết kế nghiên 
cứu 
Kết qua 
Sarosdy MF(37) Nghiên cứu ngẫu Tỷ lệ bệnh tiến triển trở lại 
Tác gia Thiết kế nghiên 
cứu 
Kết qua 
nhiên đa trung tâm giữa 
2 nhóm: 
Goserelin + kháng 
androgen: 
540 bệnh nhân 
(nhóm 1) 
Leuproline + 
kháng androgen: 
273 bệnh nhân 
(nhóm 2) 
Thời gian theo dõi 
trung bình: 160 tuần 
là 71% ở nhóm 1 và 73% ở nhóm 2 
(p=0.92) 
Tỷ lệ sống của bệnh nhân là 
54% ở nhóm 1 và 57% ở nhóm 2 
(p=0.34) 
Nhóm bệnh nhân dùng 
Leuprolide + Flutamide có kết quả 
kém nhất 
Tỷ lệ tiêu chảy cao nhất ở 
nhóm dùng Flutamide và tỷ lệ tiểu 
máu cao nhất ở nhóm dùng 
Bicalutamide 
Schellhammer(39) Nghiên cứu ngẫu Thời gian trung bình bệnh 
Tác gia Thiết kế nghiên 
cứu 
Kết qua 
nhiên đa trung tâm, mù 
đôi giữa 2 nhóm: 
Chất đồng vận 
LHRH + Flutamide: 
409 bệnh nhân 
(nhóm 1) 
Chất đồng vận 
LHRH + Bicalutamide: 
404 bệnh nhân 
(nhóm 2) 
Thời gian theo dõi 
trung bình: 
160 tuần 
tiển triển trở lại ở nhóm 1 là 77 
tuần, nhóm 2 là 97 tuần (p=0.41) 
Thời gian sống trung bình 
của bệnh nhân nhóm 1 là 148 tuần, 
nhóm 2 là 180 tuần (p=0.15) 
Tỷ lệ tiêu chảy ở nhóm 1 
(26%) cao hơn ở nhóm 2 (12%) 
(p<0.001) 
Tỷ lệ tiểu máu ở nhóm 1 
(6%) thấp hơn ở nhóm 2 (12%) 
(p=0.007) 
Chính vì còn nhiều bàn cãi về tính hiệu quả nên Debruyne FMJ 
khuyến cáo chỉ nên tiếp tục sử dụng kháng androgen kết hợp nếu thấy PSA 
giảm nhanh chóng về giới hạn bình thường trong vòng 3 đến 6 tháng sau khi 
bắt đầu điều trị(14). 
Đơn liệu pháp với chất đồng vận LHRH hoặc chất kháng 
androgen? 
Chất đồng vận LHRH tổng hợp có hoạt tính sinh học mạnh hơn 100 
lần so với LHRH tự nhiên trong cơ thể. Khi sử dụng lâu dài với liều cao, các 
thụ thể LHRH ở tuyến yên sẽ mất nhạy cảm với LHRH, làm giảm lượng LH 
và gây ức chế sản xuất testosterone của tế bào Leydig. Ngay sau khi sử dụng 
chất đồng vận LHRH, nồng độ testosterone trong máu sẽ tăng dần, đạt mức 
cao nhất trong vòng 24 đến 72 giờ rồi mới giảm xuống đến “mức 
testosterone của loại bỏ tinh hoàn” sau 2 đến 4 tuần(41). Tương ứng, trên lâm 
sàng sẽ có hiện tượng “bùng phát của ung thư” biểu hiện qua các triệu chứng 
đau xương, tắc nghẽn đường tiểu trên hoặc dưới và các triệu chứng thần kinh 
khu trú, đặc biệt dễ xảy ra trên những bệnh nhân có di căn cột sống(41). Tuy 
nhiên sự bùng phát của ung thư trên lâm sàng chỉ ghi nhận được ở 4% đến 
33% bệnh nhân mà thôi. Do đó không nên sử dụng đơn liệu pháp với chất 
đồng vận LHRH cho những bệnh nhân đang có tình trạng bế tắc đường tiểu 
hoặc ung thư đã di căn đến cột sống. Tỷ lệ các tác dụng phụ khác của chất 
đồng vận LHRH tương đương như cắt hai tinh hoàn. 
Các chất kháng androgen cạnh tranh với testosterone và DHT làm cho 
những chất này không thể gắn kết vào các thụ thể androgen tại tế bào ung 
thư của tuyến tiền liệt. Ngoài ra, những chất kháng androgen không steroid 
còn ngăn chặn sự gắn kết này ở trục hạ đồi tuyến yên, từ đó chẹn luôn cơ 
chế phản hồi âm (negative feedback) của testosterone làm cho nồng độ 
LHRH, LH và testosterone trong máu tăng lên(30). Sau khi dùng Flutamide, 
nồng độ testosterone trong máu tăng dần lên 50-70% trong vòng 3 đến 6 
tháng rồi trở về mức 20 nmol/L sau 12 tháng. Nồng độ estrogen trong máu 
cũng tăng gây nữ hoá tuyến vú (gynecomastia) ở 40-50% bệnh nhân(0). 
Bicalutamide, trái lại, không qua được hàng rào máu-não nên ít làm tăng 
lượng testosterone và LH(20). Các chất kháng androgen steroid vì có cấu trúc 
giống progesterone nên làm giảm sản xuất LH ở tuyến yên đồng thời cũng 
giảm cả nồng độ testosterone trong máu(2). Các chất này (điển hình là 
Cyproterone acetate) tuy có nhiều tác dụng phụ do hoạt tính progesterone 
như tăng trọng lượng cơ thể, giảm chức năng vỏ thượng thận, rối loạn 
chuyển hoá carbonhydrate, thuyên tắc mạch, nữ hoá tuyến vú, rối loạn 
cương (86%)...(2) nhưng lại ngăn được hiện tượng nóng bừng cơ thể(13). Tác 
dụng phụ thường gặp của các chất kháng androgen không steroid được nêu 
ra ở
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 198_7203.pdf 198_7203.pdf