Ít có chủ đề nghiên cứu được quan tâm nhiều trong những năm gần đây như 
mối liên quan giữa chế độ ăn uống với các bệnh tim mạch. Hiện nay, hầu như mọi 
người đều thừa nhận rằng chế độ dinh dưỡng là một nhân tố quan trọng trong 
phòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch, trước hết là bệnh tăng huyết ápvà 
bệnh mạch vành. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Dinh dưỡng và các bệnh tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dinh dưỡng và các bệnh tim mạch 
Ít có chủ đề nghiên cứu được quan tâm nhiều trong những năm gần đây như 
mối liên quan giữa chế độ ăn uống với các bệnh tim mạch. Hiện nay, hầu như mọi 
người đều thừa nhận rằng chế độ dinh dưỡng là một nhân tố quan trọng trong 
phòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch, trước hết là bệnh tăng huyết áp và 
bệnh mạch vành. 
1. Tăng huyết áp và bệnh mạch não. 
Yếu tố nguy cơ chính của tai biến mạch máu não là tăng huyết áp. Các 
nghiên cứu đều thấy mức huyết áp tăng lên song song với nguy cơ các lệnh tim do 
mạch vành và tai biến mạch não. 
Trong các nguyên nhân gây tăng huyết áp, trước hết người ta thường kể đến 
lượng muối trong khẩu phần. Các thống kê dịch tễ cho thấy ở các quầnthể dân cư 
ăn ít muối thì bệnh tăng huyết áp không đáng kể và không thấy có băng huyết áp 
theo tuổi. Tuy nhiên, phản ứng của từng cá thể đối với muối ăn cũng không giống 
nhau. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo chế độ ăn muối 6g/ngày là giới 
hạn hợp lý để phòng tăng huyết áp. 
Bên cạnh muối ăn còn có một số muối khác cũng có vai trò đối với tăng 
huyết áp. Theo một số tác giả, tăng lượng canxi trong khẩu phần có ảnh hưởng 
làm giảm huyết áp. Một số công trình khác nhấn mạnh vai trò của tỷ số KJNA 
trong khẩu phần và cho rằng chế độ ăn giàu kali có lợi cho người tăng huyết áp. 
Sữa và các chế phẩm từ sữa là nguồn canxi tốt, các thức ăn nguồn gốc thực vật 
như lương thực, khoai củ, đậu đỗ và các loại rau quả có nhiều kali. Thêm vào đó 
một lượng cao các axit béo bão hòa trong khẩu phần cũng dẫn đến tăng huyết áp. 
Như vậy bên cạnh muối na tri, nhiều thành phần khác trong chế độ ăn cũng 
có ảnh hưởng đến tăng huyết áp, đó là chưa kể đến một số yếu tố khác đã được đề 
cập tới là béo phì và rượu. 
Một chế độ ăn hạn chế muối, giảm năng lượng và rượu có thể đủ để làm 
giám huyết áp ở phần lớn đối tượng có tăng huyết áp nhẹ. Ở NHỮNG NGƯỜI 
TĂNG HUYẾT ÁP NẶNG chế độ ăn uống nói trên giúp giảm bớt sử dụng các 
thuốc hạ áp. Bên cạnh đó chế độ ăn nên giàu canxi, kali, vitamin C, thay thế các 
chất béo của thịt bằng cá. 
ở Việt Nam, vào những năm 60, tỷ lệ tăng huyết áp chỉ vào khoảng 1% dân 
số, nhưng hiện nay theo số liệu của Viện tim mạch tỉ lệ này cao hơn 10%, như vậy 
tăng huyết áp đã trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng. Các cuộc 
điều tra do Viện Dinh dưỡng tiến hànhcho thấy ở các vùng có nhiều người tăng 
huyết áp mức tiêu thụ muối ăn thường cao hơn các nơi khác, do đó tránh thói quen 
ăn mặn là một nội dunggiáo dục dinh dưỡng quan trọng để đề phòngtăng huyết áp 
ở nước ta. 
2. Bệnh mạch vành. 
Bệnh tim do mạch vành (Coronary Heart Disease CHD) là vấn đề sức khỏe 
cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các nguyên 
nhân gáy tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực, bệnh có 
khuynh hương giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nước Tây Âu, Úc, Mỹ, 
nhưng ở một số nước Đông Âu bệnh vẫn có xu hướng tăng. Tỷ lệ mắc bệnh khác 
nhau ở các nước cũng như trong cùng một nước nhưng khác nhau về điều kiện 
kinh tế xã hội làm cho người ta chú ý đến các nhân tố nguy cơ mắc bệnh là môi 
trường và dinh dưỡng. 
Theo sự hiểu biết hiện nay ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là hút 
thuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao. Các nguy cơ tăng 
dần theo tuổi ở nữ (trước khi mãn kinh) thấp hơn ở Nam. Các nguy cơ do tăng 
huyết áp và mối liên quan giữa dinh dưỡng với tăng huyết áp đã được trình bày ở 
phàn trên, dưới đây xin đề cập tới hai nhân tố còn lại. 
a) Hút thuốc lá : 
Tất cả các Hội đồng chuyên viên đều xác nhận hút thuốc lá là yếu tố nguy 
cơ hàng đầu đối với bệnh mạch vành. Người ta thấy hút thuốc lá không những gây 
tốn thương màng trong các động mạch mà còn sinh ra chất nieotin gây tăng nhịp 
tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơ tim. Các oxyt cacbon do hút thuốc lá 
sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxy cửa máu. Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn 
là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độ kết dính của tiểu cầu và làm giảm các 
lipoprotein có tỷ trọng cao ( HDL: High Density Lipoprotein). 
Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy nhiều ở vùng 
Địa Trung Hải như: Ý, Hi Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ lệ mắc bệnh 
mạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng rau và trái cây trong 
khẩu phần ở các nước này thường cao. 
b) Cholesterol máu: 
Mối liên quan giữa bệnh mạch vành với lượng cholesterol toàn phần trong 
máu đã được thừa nhận rộng rãi . Đó là một chỉ điểm tốt về nguy cơ của bệnh 
mạch vành. Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một 
phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp. 
Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phần 
trong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các axit béo no. Do 
cholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hết 
các ủy ban chuyên viên quốc tế đều khuyên lượng choìesterol trong chế độ ăn 
trung bình nên dưới 300 mg/ngày/người. 
Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não (2500 
mg%), bầu dục (5000 mg%), tim (2100 mg%), lòng đỏ trứng (2000 mg%), do đó 
hạn chế các thức ăn này góp phần giảm lượng cholesterol trong khẩu phần. Lòng 
đủ trứng có nhiều cholesterol nhưng đồng thời có nhiều lexitin là một chất điều 
hòa chuyển hoá cholesterol trong cơ thể. Do đó ở NHỮNG NGƯỜI CÓ 
cholesterol máu cao không nhất thiết kiêng hẳn trứng mà chỉ nên ăn trứng mỗi 
tuần 1,2 lần và nếu có điều kiện uống thêm sữa. 
Người ta thấy thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đến hàm 
lượng cholesterol huyết thanh là các axit béo no. Nghiên cứu nổi tiếng của Keys 
và cộng sự trên 7 nước sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho thấy mức 
cbolesterol huyết thanh liên quan ít với tổng số chất béo mà liên quan chặt chẽ với 
lượng các axit béo no. Qua 10 năm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch 
vành tăng lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các axit béo no trong khẩu 
phần. Các axit béo no có nhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực 
vật nói chung giàu các axit béo chưa no. Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động 
vật, tăng dầu thực vật, bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn chuyển 
hóa cholesterol. Người ta nhận thấy các axit béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ 
trọng thấp (LDL) vận chuyển cholesterol từ máu tới các tổ chức và có thể tích lũy 
ở THÀNH ÐỘNG MẠCH. Ngược lại các axit béo chưa no làm tăng các 
lipoproteìn có tỷ trọng cao (High Density Lipoprotein.HDL) vận chuyển 
cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa. 
Chế độ ăn nhiều rau và trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với bệnh 
mạch vành tuy thế còn chưa rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất xơ có nhiều 
trong rau quả, cũng có thể là một chế độ ăn thực vật sẽ làm giảm huyết áp, một 
nhân tố nguy cơ của các bệnh mạch vành. 
Trong các thập kỷ vừa qua, nhiều nước như Nguy, Thụy Ðiển, Phần Lan, 
Úc, Hoa Kỳ... đã thực hiện nhiều. biện pháp để phòng ngừa bệnh mạch vành và họ 
đã đạt được một số kết quả khả quan. Nói chung các biện pháp này bao gồm các 
lời khuyên về chế độ dinh dưỡng, cai thuốc lá, hoạt động thể lực và duy trì cân 
nặng ổn định. Trong các khuyến cáo về ăn uống, người ta khuyên năng lượng do 
chất béo cung cấp không được vượt quá 30% tổng số năng lượng, sử dụng dầu 
thực vật, tăng sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp 
quá 10% tổng số năng lượng còn năng lượng do protein nên đạt từ 10-15%. 
Các bài học trên rất bổ ích cho nước ta khi bệnh mạch vành đang có khuynh 
hướng tăng. Nghiên cứu tổn thương giải phẫu bệnh lý các trường hợp vữa xơ động 
mạch vào thập kỷ 60. Ở bệnh viện Bạch Mai cho thấy, 95% có tổn thương động 
mạch não, 5% có tổn thương động mạch vành, còn đầu thập kỷ 80, 85% có tổn 
thương động mạch não và 15% có tổn thương động mạch vành. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dinh_duong_va_cac_benh_tim_mach_5.pdf dinh_duong_va_cac_benh_tim_mach_5.pdf