Câu nói nổi tiếng của Peter Drucker “What gets measured gets managed!”, tạm dịch
là “Chúng ta chỉ quản lý tốt những gì chúng ta đo lường được”, đã chỉ ra tầm quan trọng của
việc đo lường đối với quản lý. Hiệu quả là một vấn đề đang rất được quan tâm trong bối cảnh
toàn cầu hóa cạnh tranh gay gắt hiện nay. Bài viết của tác giả, vì vậy, đã áp dụng phương
pháp phân tích màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis, gọi tắt là DEA) để đo lường
hiệu quả của 116 trường đại học của Việt Nam có đủ dữ liệu đối với năm học 2012-2013. Kết
quả đo lường cho thấy hiệu quả sử dụng nguồn lực của các trường đại học của Việt Nam nhìn
chung còn khá thấp. Vậy nên, việc xem xét cải thiện chúng là một yêu cầu cấp thiết để cải
thiện năng lực cạnh tranh của hệ thống này ở quy mô khu vực và quốc tế.
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 901 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Đo lường hiệu quả của các trường đại học của Việt Nam: Vận dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (DEA), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng 3: Tổng hợp hiệu quả của các nhóm trường đại học 
Nhóm trường 
Số 
lượng 
trường 
Số 
trường 
hiệu 
quả 
Giá trị 
trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Giá 
trị 
nhỏ 
nhất 
Giá trị 
lớn 
nhất 
I. Phân loại theo tiêu chí công-
tư 
1. Đại học và trường đại học 11 7 0,878 0,222 0,421 1,000 
4Đây là những đơn vị có các chỉ số CRS và VRS trùng nhau. 
976 
trọng điểm quốc gia 
2. Các trường đại học công lập 
khác 
68 3 0,470 0,233 0,157 1,000 
3. Các trường đại học tư thục 37 6 0,505 0,297 0,111 1,000 
II. Phân loại theo trình độ đào 
tạo 
1. Trường đại học đào tạo tiến sĩ 30 7 0,736 0,212 0,405 1,000 
2. Trường đại học đào tạo thạc 
sỹ 
30 3 0,520 0,216 0,264 1,000 
3. Trường đại học đào tạo cử 
nhân 
56 6 0,403 0,273 0,111 1,000 
III. Phân loại theo nhóm 
ngành đào tạo 
1. Nhóm 1 25 1 0,500 0,230 0,197 1,000 
2. Nhóm 2 13 4 0,759 0,220 0,429 1,000 
3. Nhóm 3 14 1 0,418 0,203 0,222 1,000 
4. Nhóm 4 64 10 0,501 0,298 0,111 1,000 
(Nguồn: Tác giả tự tính toán). 
 Kết quả tổng hợp này đã cho thấy nhóm các trường đại học trọng điểm quốc gia là 
nhóm có hiệu quả vượt trội, với 7/11 trường được đánh giá là hiệu quả và điểm hiệu quả trung 
bình đạt 0,878. Tiếp theo, mặc dù nhóm các trường công còn lại là nhóm chiếm đa số trong 
tổng mẫu cũng như trong toàn bộ hệ thống các trường đại học của Việt Nam, tuy nhiên hiệu 
quả tương quan của chúng khá thấp: chỉ có 3/68 trường đạt hiệu quả tối ưu và mức hiệu quả 
trung bình của các trường trong nhóm cũng chỉ đạt 0,47. 
 Đối với các nhóm trường được phân theo trình độ đào tạo, chúng ta nhận thấy rằng các 
trường cung cấp các chương trình đào tạo ở trình độ càng cao thì hiệu quả càng cao. Cụ thể, 
thứ tự giảm dần về hiệu quả của 3 nhóm trường được phân loại theo tiêu chí này là: các 
trường đại học đào tạo tiến sĩ, các trường đào tạo thạc sỹ và các trường chỉ đào tạo đến cử 
nhân. 
 Theo nhóm ngành đào tạo thì nhóm 2 được đánh giá là nhóm có hiệu quả cao nhất, và 
hiệu quả thấp nhất thuộc về nhóm 3. Nhóm thứ 4 mặc dù là nhóm chiếm đa số trong tổng mẫu 
cũng như trong toàn bộ hệ thống đại học của Việt Nam5, hiệu quả của nó được đánh giá là vẫn 
còn khá thấp. Mức hiệu quả trung bình của nhóm chỉ đạt 0,501. Đó là do ảnh hưởng của sự 
kém hiệu quả của những cơ sở mới thành lập thuộc nhóm này. Chúng ta có thể nhận thấy đơn 
vị kém hiệu quả nhất thuộc nhóm này chỉ đạt mức hiệu quả tương quan là 0,111. Thực chất, 
đây dù là một cơ sở đào tạo đa ngành nhưng chỉ đào tạo đến cử nhân; và là một trường đại 
học mới được thành lập vào năm 2011, và bắt đầu tuyển sinh từ năm học 2012-2013. 
4. KẾT LUẬN 
 Thông qua bài viết này, lần đầu tiên “bức tranh” hiệu quả của các trường đại học của 
Việt Nam được phản ánh bằng những con số rõ ràng. Kết quả đo lường thu được đã cho thấy 
5Các cơ sở đào tạo đa ngành là bộ phận cơ bản của nhóm này. 
977 
hiệu quả kỹ thuật của các trường đại học của Việt Nam vẫn còn rất thấp: điểm hiệu quả trung 
bình của 116 trường được xem xét chỉ đạt 0,52. Với mô hình định hướng đầu ra mà tác giả sử 
dụng, kết quả này chỉ ra rằng với các nguồn lực về con người và cơ sở vật chất hiện có, các 
đầu ra thu được của các trường vẫn còn có thể tăng lên gần gấp đôi mức hiện tại. Câu hỏi đặt 
ra ở đây là: làm sao để tăng được chúng? Những phân tích chi tiết về đóng góp của các yếu tố 
đầu vào, đầu ra vào kết quả hiệu quả của mỗi trường cũng như danh sách của các “đơn vị 
chuẩn” làm căn cứ cho việc điều chỉnh hiệu quả của các đơn vị chưa hiệu quả sẽ được đề cập 
trong những bài viết tiếp theo của tác giả. 
Liên quan đến từng nhóm trường cụ thể, kết quả của bài viết cũng đã cho thấy chính 
sách phát triển các trường đại học trọng điểm quốc gia như là những đơn vị nòng cốt của toàn 
hệ thống đại học của Việt Nam là một chính sách đúng đắn. Thực tế đây là nhóm trường có 
hiệu quả rất cao, và cách xa các trường còn lại. Vì vậy, để đạt được mục tiêu “đến năm 2020 
có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới” (được nêu 
lên tại Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg của Thủ tường Chính phủ ban hành ngày 
27/07/2007), cần có chính sách đầu tư hợp lý hơn nữa đối với nhóm trường này. Ngoài ra, với 
xu hướng xã hội hóa giáo dục đại học, việc hình thành các trường đại học tư thục là một tất 
yếu. Mặc dù được hình thành muộn hơn, tuy nhiên với cơ chế quản lý linh hoạt, năng động 
hơn, các cơ sở này được đánh giá là đã sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình hơn so với 
các trường đại học công lập còn lại (không kể đến các trường trọng điểm quốc gia). Như vậy, 
Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục tạo điều kiện để hệ thống trường này tiếp tục phát triển 
nhằm: một phần giảm bớt gánh nặng về trợ cấp từ Ngân sách cho giáo dục đại học, mặt khác 
thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học. 
Để tăng khả năng cạnh tranh của hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, Chính phủ 
cũng cần tập trung phát triển nhóm trường đào tạo tiến sĩ và định hướng nghiên cứu, đồng 
thời có chính sách tái cơ cấu hợp lý các trường đại học chỉ đào tạo đến cử nhân. Như chúng ta 
nhận thấy, đây là nhóm trường đang chiếm đa số trong hệ thống các trường đại học của Việt 
Nam trong khi hiệu quả của chúng là rất thấp. 
Tóm lại, kết quả của bài viết này đã cho thấy hiệu quả cả các nhóm trường khác nhau 
là rất khác nhau. Đặc biệt là đối với các nhóm được phân loại theo ngành đào tạo. Vì với đặc 
thù riêng của các cơ sở đào tạo thuộc nhóm ngành nghệ thuật, thể dục thể thao và y dược, 
cũng như nhóm ngành kỹ thuật, khi đánh giá chung trong toàn bộ hệ thống, hiệu quả của 
chúng sẽ thấp hơn. Vì vậy, để có thể xác định được chính xác hơn hiệu quả tương quan của 
các trường trong mỗi nhóm, và quan trọng hơn nữa là tìm ra được những “đơn vị chuẩn” phù 
hợp cho việc cải thiện hiệu quả của các đơn vị chưa hiệu quả, cần phải tìm ra được đường 
biên hiệu quả riêng của mỗi nhóm. Đó là định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo của tác 
giả. 
978 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ahn, T., Charnes, A., & Cooper, W. W. (1988).Some statistical and DEA evaluations of 
relative efficiencies of public and private institutions of higher learning.Socio-Economic 
Planning Sciences, 22(6), 259-269. 
Banker, R. D., Charnes, A., & Cooper, W. W. (1984). Some models for the estimation of 
technical and scale inefficiencies in Data Envelopment Analysis. Management Science, 30, 
1078–1092. 
Beasley, J. E. (1990). Comparing university departments.Omega, 18(2), 171-183. 
Castano, M. C. N., Cabanda, E. C. (2007a). Performance evaluation of the efficiency of 
Philippine Private Higher Educational Institutions: Application of frontier approaches. 
International Transactions in Operational Research, 14, 431-444. 
Castano, M. C. N., Cabanda, E. C. (2007b). Sources of Efficiency and Productivity Growth in 
the Philippine State Universities and Colleges: A Non-Parametric Approach. International 
Business & Economics Research Journal, 6 (6), 79-90. 
Charnes, A., Cooper, W.W., & Rhodes, E. (1978).Measuring the efficiency of decision 
making units.European Journal of Operational Research, 2, 429–444. 
Coelli, T. J. (1996). A Guide to DEAP version 2.1: A data envelopment analysis (Computer) 
Program. Centre for Efficiency and Productivity Analysis (CEPA), CEPA Working Paper No. 
8/96. 
Cuenca, J. S. (2011). Efficiency of State Universities and Colleges in the Philippines: A Data 
Envelopment Analysis. Philippine Institute for Development Studies, Discussion paper series 
n° 2011-14. 
Do, Q. H., Chen, J. F. (2014). Integrating managerial preferences into the assessment by the 
fuzzy AHP/DEA approach: A case application in the assessment of university 
performance.DEPOCEN Working Paper Series n° 2014/03. 
Farrell, M. (1957).The measurement of productive efficiency.Journal of the Royal Statistical 
Society, Series A, 120, 253–281. 
Johnes, J., Yu, L. (2008). Measuring the research performance of Chinese higher education 
institutions using data envelopment analysis.China Economic Review, 19, 679-696. 
Liu, J. S., Lu, L. Y. Y, Lu, W-M., & Lin, B. J. Y. (2013). A survey of DEA 
applications.Omega, 41, 893–902. 
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ban hành ngày 02/11/2005.Nghị quyết của Chính phủ về “Đổi 
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”. 
Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ban hành ngày 27/07/2007.Quyết định của Thủ tướng 
Chính phủ về “Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 
2006 – 2020”. 
979 
Quyết định số 795/QĐ-BGDĐT ban hành ngày 27/02/2010. Quyết định của Bộ Giáo dục và 
Đào tạo “Quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh, quy trình đăng ký, thông báo chỉ tiêu 
tuyển sinh, kiểm tra và xử lý việc thực hiện các quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh sau 
đại học, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp”. 
Tyagi, P., Yadav, S. P., & Singh, S. P. (2009).Relative performance of academic departments 
using DEA with sensitivity analysis.Evaluation and Program Planning, 32, 168-177. 
Yang, R. (2003). Globalisation and higher education development: A critical 
analysis. International Review of Education, 49(3-4), 269-291. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 do_luong_hieu_qua_cua_cac_truong_dai_hoc_cua_viet_nam_van_du.pdf do_luong_hieu_qua_cua_cac_truong_dai_hoc_cua_viet_nam_van_du.pdf