Xét về nguồn gốc thì thuốc đông y là loại thuốc được 
bào chế từ các bộ phận khác nhau của động -thực vật 
dùng làm thuốc như rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, hạt. Vì 
thế mà đa phần các loại đông dược này đều chứa các 
chất hữu cơ nên đều là môi trường để nấm mốc sinh 
tồn. Khi những đông dược này không được bảo quản 
tốt thì sẽ làm xuất hiện những điều kiện tạo thuận lợi 
cho nấm mốc hồi sinh từ bào tử như nhiệt độ cao, độ ẩm 
lớn Nấm mốc ngay lập tức định cư và “mọc” thành 
đám.
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Dùng Ðông dược mốc, rước bệnh trọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dùng Ðông dược mốc, rước bệnh trọng 
Xét về nguồn gốc thì thuốc đông y là loại thuốc được 
bào chế từ các bộ phận khác nhau của động - thực vật 
dùng làm thuốc như rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, hạt. Vì 
thế mà đa phần các loại đông dược này đều chứa các 
chất hữu cơ nên đều là môi trường để nấm mốc sinh 
tồn. Khi những đông dược này không được bảo quản 
tốt thì sẽ làm xuất hiện những điều kiện tạo thuận lợi 
cho nấm mốc hồi sinh từ bào tử như nhiệt độ cao, độ ẩm 
lớn… Nấm mốc ngay lập tức định cư và “mọc” thành 
đám. 
Độc từ liều nhỏ nhất 
Loại nấm mốc thường gặp là nấm Acremonium và 
Aspergillus. Đây cũng là những loại nấm có thể gây bệnh. 
Đông dược mốc có hai tác hại: thứ nhất là bị giảm hoạt tính 
dược lý do thuốc bị nấm mốc phân huỷ. Thứ hai bị nhiễm 
thêm những độc tố khác do nấm mốc sinh ra. Một trong 
những độc tố đó là mycotoxin. Tác hại của những động 
dược mốc chính là những tác dụng độc học của những độc 
tố này do chúng tiết ra. 
Độc tố mycotoxin (độc tố nấm) độc đến mức chúng có thể 
gây tử vong. 
Ergot alkaloid do nấm Claviceps purpurea sản xuất. Chúng 
gây độc trên thần kinh, gây co giật cơ và gây co thắt các 
mạch máu. Chúng có thể gây ra co gấp các cơ chân tay, co 
rút co mặt, làm xuất hiện những cơn co giật trên toàn bộ cơ 
thể giống như động kinh. Các trichothecene thì lại gây độc 
trên hệ tiêu hoá, dẫn tới buồn nôn và nôn, rối loạn tiêu hoá, 
tiêu chảy. Chúng còn có khả năng gây ra biến đổi quá trình 
sinh học bên trong tế bào, làm rối loạn quá trình “chết tế 
bào theo chu trình”. Tế bào không bị chết theo kiểm soát 
của cơ thể mà cứ sinh sản vô độ, từ đó dẫn đến ung thư. 
Nhưng có lẽ độc nhất là các aflatoxin do nấm Aspergillus 
tạo ra. Có tất cả 6 loại aflatoxin, bao gồm B1, B2, G1, G2, 
M1 và M2. Bằng các thực nghiệm khoa học tỉ mỉ, người ta 
thấy aflatoxin có thể gây ra tử vong ở một liều độc cấp tính, 
là hoạt chất gây ra ung thư biểu mô trên động vật thực 
nghiệm và trên người. Đồng thời là tác nhân gây ra hàng 
loạt các bệnh không dễ chịu khác. 
Về nguy cơ gây ung thư thì aflatoxin là một độc chất có 
khả năng gây ung thư rõ rệt và điển hình. Thử nghiệm cho 
thấy chất này có thể gây ung thư gan, ung thư đường tiêu 
hoá. Nếu bị nhiễm aflatoxin qua đường tiêu hoá thì chỉ cần 
với nồng độ 50µg/kg, sau hơn 1 tháng bệnh ung thư sẽ xuất 
hiện. Ung thư ở đây là dạng ung thư biểu mô như ung thư 
gan, ung thư đại tràng, ung thư dạ dày… Mặc dù có nhiều 
cách giải thích khác nhau, nhưng cơ chế được công nhận 
nhiều nhất là do aflatoxin gây đột biến AND và gây hoạt 
hoá những gen ung thư trong cơ thể. 
Cần bảo quản tốt đông dược tránh bị 
mốc. 
Chưa hết, aflatoxin còn gây ra các bệnh khác của cơ thể. 
Chúng gây tổn thương tế bào gan dạng hoại tử dẫn tới viêm 
gan, nặng sẽ phát triển thành xơ gan. Aflatoxin còn có thể 
gây giảm khối lượng gan, lách, tuyến ức. Đây là những cơ 
quan chứa nhiều tế bào lympho có thẩm quyền miễn dịch 
cho nên thường được gọi là những cơ quan miễn dịch. Vì 
thế mà aflatoxin có khả năng làm giảm sức miễn dịch của 
cơ thể. Trên chuyển hoá bilirubin, aflatoxin gây ức chế quá 
trình kết hợp của bilirubin tại gan dẫn đến chứng tăng 
bilirubin máu, vàng da vàng mắt. 
Điều cần lưu ý ở đây, sau khi đông dược bị nhiễm mốc, 
những độc tố do chúng tiết ra tồn tại rất lâu và ở cả những 
nhiệt độ rất cao (phải gần 300oC nó mới bị phân hủy). Vì 
thế nếu chỉ sử dụng phương pháp sắc uống thông thường 
thì chưa thể phá huỷ hoàn toàn những độc tố chết người 
này. Do vậy, một lời khuyên tốt nhất khi sử dụng đông 
dược trị bệnh là cần thận trọng. 
Những lưu ý khi sử dụng thuốc Đông dược 
Khi sử dụng Đông dược điều trị, cả thầy thuốc và bệnh 
nhân cần sử dụng thuốc rõ nguồn gốc để đảm bảo chất 
lượng. Không vì giá rẻ mà chúng ta sử dụng những thuốc 
được chế biến sơ sài, không đúng quy 
trình. 
Xung quanh 
chúng ta, luôn có 
những sinh vật ký 
sinh như nấm 
mốc tồn tại. Dù 
chúng ta có đóng 
kín cửa thế nào 
thì cũng không 
thể tránh khỏi 
nhiễm nấm mốc 
vì những bào tử 
nấm rất nhỏ, rất 
nhẹ có thể di 
chuyển, bay lơ 
lửng trong không 
trung. Chúng 
luôn tồn tại bên 
chúng ta và trực 
Khi sử dụng những thuốc đông y được 
bào chế dưới dạng bao gói hộp, chúng 
ta phải chú ý các thông số về tiêu chuẩn 
chất lượng như hạn sử dụng, bao gói 
thủng hay không thủng, hộp thuốc 
phồng hay không phồng. Khi bao gói có 
dấu hiệu bị thủng, hộp thuốc đã bị 
phồng thì có nghĩa là đã có nấm mốc 
định cư. Chúng ta không nên sử dụng 
những loại thuốc này. 
Khi sử dụng đông dược dưới dạng thang thuốc thông 
thường chúng ta phải quan sát mầu sắc của thuốc. Không 
sử dụng thuốc có dấu hiệu biến đổi màu, có màu xanh màu 
xám hay mầu vàng thành từng đám không trùng màu với 
màu của thuốc, không sử dụng những thuốc ẩm, mềm hay 
có mùi khó chịu. Khi thuốc có mùi lạ, thuốc có màu bị biến 
đổi có nghĩa là đã có nguy cơ bị nhiễm nấm mốc. Dù chỉ 
một góc của thang thuốc “nhìn” thấy là nhiễm nấm mốc thì 
không thể khẳng định được những phần còn lại là an toàn. 
Do vậy, chúng ta cũng không nên sử dụng những loại thuốc 
này. 
chờ cơ hội để 
xâm nhập và phát 
triển. Chỉ cần có 
hợp chất hữu cơ 
cộng với những 
điều kiện thuận 
lợi thì ngay lập 
tức chúng tái 
sinh. 
 BS. Cao Hồng Lâm 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 15_1943.pdf 15_1943.pdf