Bí đỏ temp
- Từ đâu có tên bí đỏ ?
- Gọi bí đỏ vì thịt quả có thể chất giống bí đao nhưng màu vàng đỏ.
- Tại sao còn gọi là bí ngô ?
- Vì thịt quả có loại màu vàng như ngô vàng (loại thực phẩm gia súc)
- Thế còn bí rợ ?
- Loại bí này thường mọc hoang rải rác ở bìa rừng(có lẽ do chim tha 
hạt từ nới khác đến). Rợ = mọi rợ.
- Thế sao không gọi là “bí mọi” tương tự như “heo mọi”.
- Ai mà biết được.
- “Bí đỏ mì sợi” có phải là món ăn nấu bí đỏ với mì sợi ? 
- Không phải, loại bí này nấu chín đánh tơi lên xuất hiện mớ rối như 
mì sợi. Đó là một loài bí đỏ riêng. Hiện có nhiều loài bí đỏ: Banana, 
Buttercup, Delicate, Golden Nugget, Spaghetti, Sweet dumpling, Turban 
- Thế còn “bí tịt” ?
- Bí tịt là “chào cờ”. Khi thầy cô giáo gọi học trò lên bục kiểm tra. 
Không học bài, không nói được câu nào, đứng thẳng như pho tượng thì gọi 
là “chào cờ” hay “bí tịt”.
- Khi nào thì “bí xị” ?
- Khi vòi vĩnh không được thoả mãn (ví dụ thiếu nữ đòi lấy chồng) 
thì m ặt sưng tròn như cái mẹt, gọi là mặt mày bí xị.
- Tôi cứ tưởng là dân nghiền rượu không kiếm được xị nào nên “bí 
xị” (một xị = dung tích một chai nước ngọt, khoảng 250-330ml)
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Dược học bí đỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC 
BÍ ĐỎ 
 Bí đỏ temp 
- Từ đâu có tên bí đỏ ? 
- Gọi bí đỏ vì thịt quả có thể chất giống bí đao nhưng màu vàng đỏ. 
- Tại sao còn gọi là bí ngô ? 
- Vì thịt quả có loại màu vàng như ngô vàng (loại thực phẩm gia súc) 
- Thế còn bí rợ ? 
- Loại bí này thường mọc hoang rải rác ở bìa rừng(có lẽ do chim tha 
hạt từ nới khác đến). Rợ = mọi rợ. 
- Thế sao không gọi là “bí mọi” tương tự như “heo mọi”. 
- Ai mà biết được. 
- “Bí đỏ mì sợi” có phải là món ăn nấu bí đỏ với mì sợi ? 
- Không phải, loại bí này nấu chín đánh tơi lên xuất hiện mớ rối như 
mì sợi. Đó là một loài bí đỏ riêng. Hiện có nhiều loài bí đỏ: Banana, 
Buttercup, Delicate, Golden Nugget, Spaghetti, Sweet dumpling, Turban… 
- Thế còn “bí tịt” ? 
- Bí tịt là “chào cờ”. Khi thầy cô giáo gọi học trò lên bục kiểm tra. 
Không học bài, không nói được câu nào, đứng thẳng như pho tượng thì gọi 
là “chào cờ” hay “bí tịt”. 
- Khi nào thì “bí xị” ? 
- Khi vòi vĩnh không được thoả mãn (ví dụ thiếu nữ đòi lấy chồng) 
thì mặt sưng tròn như cái mẹt, gọi là mặt mày bí xị. 
- Tôi cứ tưởng là dân nghiền rượu không kiếm được xị nào nên “bí 
xị” (một xị = dung tích một chai nước ngọt, khoảng 250-330ml) 
- Cũng đúng thôi. 
Bí đỏ còn gọi là bí ngô, bí rợ, tên khoa học là Cucurbita pepo, họ Bầu 
bí. Dây bí đỏ mọc lan trên mặt đất. Hiện nay có nhiều loài mà quả có hình 
dáng và màu sắc khác nhau: hình cầu, hình cầu dẹt, hình trụ; vỏ nâu, vỏ vân, 
vỏ sẫm màu ; thịt đỏ, thịt hồng, thịt vàng ; có loại nặng trên 100kg. Trong số 
đó có khá nhiều loài lai giống 
A- Đọt bí. 
Đọt bí ngô dùng làm rau ăn: xào, um (xào nước) hay nấu canh. Đọt bí 
có tính thanh nhiệt, nhuận tràng nhờ chất xơ kích thích nhu động ruột. 
 Món chay đọt bí đỏ nấu với cà chua. Đọt bí và cà chua đều thanh 
nhiệt, nhuận tràng. Đây là một kết hợp đồng vận vì cả hai đều có tính chống 
oxy-hoá ; tăng tính trị liệu cũng tăng khẩu vị. Khi trời nắng nóng nên ăn 
món này. 
B- Hoa bí . 
Hoa bí cũng thanh nhiệt nhuận tràng nhưng hơi chát nên có tính thu 
sáp nhẹ. Thu sáp nên cầm mồ hôi, cố tinh. 
Nhuyễn thể (nghêu, sò, ốc, hến) có khả năng cường dương. Aên với 
hoa bí để cố tinh, chống hoạt tinh. Cuốn nhuyễn thể vào trong hoa bí rồi xào 
nấu sẽ có một món ăn ngon lại tăng khả năng tình dục nữa. Đó là món “ông 
khen ngon, bà khen hay”. 
 Hoa bí có beta-carotene, một chất tiền sinh tố A. Vào cơ thể, betâa-
caroten sẽ chuyển hoá thành vitamin A với hiệu suất khoảng 25%. Hoa bí 
um cà chua là món ăn chay có tính thanh nhiệt. Lycopen trong cà chua giúp 
tăng hấp thụ caroten vào máu. 
C- Quả bí non. 
 Đồng bào khẩn hoang thường trồng các cây ngắn ngày như ngô, 
khoai mì, bí đỏ…. Quả bí đỏ non dùng thay rau, luộc hoặc nấu canh ; nhưng 
ăn nhiều bị tiêu chảy. Đọt bí làm rau ăn an toàn hơn quả non. 
D- Quả bí chín. 
100g quả bí chín sinh 25-30 calori. Thành phần: 90% nước,8% glucid, 
1% protein, 19mg photpho, 430mg kali, 23mg calci, 17mg manhê, 0,5mg 
sắt, 8mg vitamin C (15% nhu cầu hàng ngày), 22mcg folacin (11%), 1mg 
beta-caroten. 
Quả bí đỏ được dùng làm nhiều món ăn ngon: luộc, xào, nấu canh: 
Em về Bình định cùng anh, 
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa. 
Quả bí còn dùng để nấu chè, cháo và nhất là các món ăn chay. 
d.1- Thanh nhiệt, giải khát, sinh tân dịch. 
Vào nùa nóng nực nên ăn bí đỏ. 
d.2-Quáng gà, khô mắt- 
 Quáng gà là nhìn không rõ khi thiếu ánh sáng. Nhìn không rõ nên lờ 
quờ, lạng quạng cứ như con gà vào lúc sẩm tối, “quáng ga” hay “gà mơ” là 
cụm từ thật hay và chính xác. Người lao động lạng quạng lè phè theo kiểu 
“thợ vịn” bị chê là “gà mờ”, kiểu gà mờ này không liên quan gì đến vitamin 
A. Thiếu vitamin A sẽ bị khô mắt, quáng gà. Điều cần biết là thiếu vitamin 
A sinh bệnh nhưng dư vitamin A cũng bị độc. Theo tài liệu cuả Đại học 
Johns Hopkins 5-1999 trích đăng Annal of Internal medicine, dùng dài hạn 
vitamin A trên 1,5g/ngày (tương đương 5.000UI), xương không giữ được 
calci, tỷ trọng xương giảm 6% và tăng gấp đôi nguy cơ loãng xương, dễ gãy 
xương. Rõ ràng vitamin A là con dao hai lưỡi. Beta-caroten cuả bí đỏ vào cơ 
thể sẽ chuyến hoá thành vitamin A. Cơ thể là một bộ máy tuyệt vời, nó chỉ 
chuyển hoá caroten thành vitamin A khi cần thiết. Một khi đã đủ nhu cầu nó 
không chuyển hoá nữa, vì thế không sợ dư thưà vitamin A, khá an toàn . Rất 
hiếm khi dư caroten tới độ vàng da. Giả dụ gặp trường hợp này, chỉ cần 
ngưng ăn một thời gian là cơ thể tự đào thải. Nên ăn kèm cà chua, lycopen 
trong cà chua giúp tăng hấp thụ caroten vào máu. Beta-caroten và lycopen 
cùng thuộc nhóm carotenoid, chúng có khả năng chống oxy-hoá, chống lão 
hoá, ngăn chặn các bệnh tim mạch và ung thư. (xem bài chất chống oxy-hoá, 
sách Món ăn-bàii thuốc quyển 5). Hãy dùng thực phẩm có beta-caroten mà 
tránh dùng hoá chất tinh khiết vì đã phát hiện trường hợp kết quả trái ngược. 
d.3- Giảm thân trọng. Bí rợ có khả năng sinh nhiệt thấp nên dùng vào 
thực đơn giảm thân trọng. Mập phì do cơ thể tích nhiều mỡ. 
 Aên cho sướng miệng đã thèm, 
 Phát phì to béo chòm chèm cái lu. 
 Nhịn ăn nhịn uống mệt đừ, 
 Mà sao mỡ bụng, mỡ lườn vẫn dư. 
Đừng nhịn ăn mà chỉ tiết thực, giảm chất béo. Thân trọng giảm từ từ 
an toàn hơn là xuống nhanh vì xuống nhanh rồi sẽ lên trở lại. 
d.4- Phòng chống bệnh tim mạch. 
Mập phì cần giảm cân đã đành, còn người bệnh tim mạch cũng phải 
ăn kiêng để giảm cân là sao ? Aên kiêng giảm mỡ để cơ thể tiêu thụ mỡ tồn 
trữ trong máu. Sự kết đọng chất béo làm thành mạch máu mất tính đàn hồi 
nên huyết áp tăng. Vết kết đọng này kéo theo sự oxyd-hoá lipoprotein và tạo 
xơ động mạch, thành mạch dày thêm và mạch máu giảm khẩu độ, sự tuần 
hoàn thêm trì trệ, dẫn tới thiểu năng động mạch vành. “Máu nhiễm mỡ” 
cũng tạo thuận lợi cho sự kết đọng tiểu cầu, sảnsinh ra máu cục ; máu cục 
làm tắc nghẽn mạch máu tim gây chết đột tử do nhồi máu cơ tim ; nó vào 
não gây tai biến mạch máu não. Rõ ràng việc ăn kiêng để tiêu hoa mỡ là biện 
pháp tiên khởi phòng chống các bệnh tim mạch. 
Xơ động mạch do lipoprotein LDL oxyd hoá. Beta-caroten trong bí đỏ 
có khả năng chống oxyd hoá nên hữu ích trong trường hợp này. 
 Chất xơ trong bí đỏ khoá hoạt tính cuả cholesterol và kéo theo phân. 
Chúng ta biết rằng chất béo phải nhờ cholesterol nhũ hoá mới ngấm được 
vào máu. Cholesterol bị khoá hoạt tính nên cả cholesterol và chất béo đều 
không vào máu và bị bài xuất theo phân. Kết quả là cholesterol và chất béo 
đều giảm, đồng thời giảm nguy cơ bệnh tim mạch.. 
d.5- Trị bệnh tiểu đường. 
Bệnh tiểu đường có liên quan gì đến mỡ đâu mà cũng phải kiêng mỡ 
và giảm thân trọng ? Sự kết đọng chất béo và xơ động mạch ngăn chặn 
glucoz khuếch tán vào các mô. “Máu nhiễm mỡ” làm cho tuần hoàn trì trệ, 
tạo thuận lợi cho việc liên kết protein-glucoz ; dưới dạng liên kết đại phân 
tử, glucoz không thể thoát ra ngoài mạch. Đây là hai nguyên nhân khiến 
glucoz-huyết tăng ở những người mập phì bị bệnh tiểu đường loại II (không 
phụ thuộc insulin).(Ref… 
Beta-caroten chống oxyd hoá lipoprotein LDL, ngăn chặn xơ động 
mạch nghĩa là giúp cho glucoz phân tán được ra khỏi mạch máu. Beta-
caroten trong quả bí đỏ còn chống lão hoá, mà lão hoá là một trong những 
nguyên nhân cuả bệnh tiểu đường. 
Bí đỏ lại có ít chất bột nên rấ thuận lợi cho thực đơn người bệnh tiểu 
đường. 
d.6- Nhuận tràng. 
Quả bí còn non nhận tràng mạnh hơn bí chín. Người mập phì thường 
táo bón. Aên bí đỏ vưà giảm cân vưà nhuận tràng. 
d.7- Món ăn bí đỏ. Với tất cả các bệnh trên nên ăn món canh chay bí 
đỏ nấu với cà chua, nấm rơm hoặc nấm đông cô, thêm súp lơ hoặc bắp cải 
càng tốt. 
E- Hạt bí. 
100g hạt bí (phần ăn được) sinh 541 calori, có 25g protein, 46g chất 
béo, gamma tocophenrol, delta-phytosterol và một aminoacid riêng biệt là 
cucurbitin. Các delta 5-, delta 7-, delta 8-phytosterol (24-alkylsterols) bao 
gồm clerosterol, isofucosterol, sitosterol, sitgmasterol, isoavenasterol, 
spinaterol (theo Harbal medicines 1999). 
e.1 Hạt dưa ngày tết. Chất béo sinh 76% năng lượng cuả hạt bí đỏ, 
chia ra 15% do acid béo bão hoà, 35% do acid béo nhiều nối đôi, 23% do 
acid béo một nối đôi. Với thành phần này, chất béo trong hạt bí ngô tương 
đối tốt, hơn hạt dưa nhưng không bằng hạt hướng dương. Trong dịp tết, hãy 
thay tập quán cắn hạt dưa bằng hạt bí đỏ, vưà tốt hơn, dễ cắn hơn và không 
có phẩm màu (tăng nguy cơ ung thư). 
e.2- Trị giun sán.Y học dân gian đã dùng hạt bí để trị giun sán. Mỗi 
lần dùng khoảng 50g hạt bí rang (kể cả vỏ). Bỏ vỏ, ăn hạt vào sáng sớm. 
Không nhịn ăn cũng được nhưng nhịn ăn vẫn tốt hơn. Một giờ sau uống 
thuốc xổ thì tốt hơn. Nên dùng vài ba lần cho hết hẳn trứng ký sinh trùng. 
Dịch chiết cồn hạt bí đỏ diệt được sán xơ mít Toenia saginata vàø 
Toenia solium ; nó chỉ tác dụng vào trứng và đốt sán nhưng chưa đủ hiệu lực 
làm tê liệt đầu sán, hãy kềt hợp với binh lang (hạt cau) thì kết quả hoàn 
chỉnh, 95%. Để diệt sán xơ mít, uống 90-120g hạt bí rang (đã bỏ vỏ), kết 
hợp với hạt cau. Thuốc hiệu lực trong vòng 40-60 phút. 
Dịch chiết nước trị được giun đuã và giun kim. Người ta đã phát 
hiệntrong hạt bí đỏ chất cucurbitine, hiện đã tổng hợp được. Cucurbitin có 
thể trừ được giun đũa và gium kim với nồng độ ¼.000 (Fang SD, Acta Chim 
Sin 1962.) Vấn đề chưa sáng tỏ là hoạt chất trị sán xơ mít là cucurbitine hay 
chất khác. 
Chen Z đã bá cáo rằng hạt bí đỏ có khả năng diệt Schistosomia,cả ấu 
trùng lẫn trưởng thành. (Acta Pharm Sin 1980). 
e.3- Hạt bí có khả năng ức chế kháng thể IgE trong một vài trường 
hợp dị ứng. Nó cũng có tác dụng với kháng thể anti-DNA (Kapadia GJ. 
Cancer letter 1996).Tính chất này mới thấy trong phòng thí nghiệm nhưng 
chưa thử nghiệm lâm sàng. 
e.4- Bệnh tiết niệu. 
- Y học cổ truyền dùng hạt bí đỏ trị các bệnh đường tiết niệu. 
- Có khá nhiều bệnh tiết niệu, không xác định bệnh gì nên có nguy 
cơ dùng thuốc không đúng bệnh. Y học cổ truyền thiếu chính xác. 
- Phê bình như vậy cũng đúng thôi nhưng mà… 
- Dùng thuốc trị bệnh cần phải chính xác. Khi nói một thuốc trị bệnh 
tiết niệu, cần nói rõ bệnh ở cơ quan nào: quả thận, ống tiểu, bàng quang hay 
ống thoát tiểu ; loại bệnh gì: nhiễm trùng, viêm, tổn thương…Thuốc đó tác 
dụng vào mô nào: thần kinh, cơ trơn,biểu mô…chính xác hơn là với thụ thể 
nào…Đã qua rồi thời kỳ nhắm mắt dùng thuốc. 
- Ghê quá, chọc đúng chỗ ngưá nên phát biểu hùng hồn cứ 
như…máy cassette. Nhưng mà… 
- Không nhưng mà gì hết…trị bệnh cho người mà ! 
- Với cái nhìn chính xác cuả khoa học hiện đại, phê bình thế là đúng 
thôi. 
- Có thế chứ ! 
- Y học cổ truyền có từ hàng ngàn năm trước. Muốn phê bình ngành 
học này, chúng ta phải là đặt mình vào bối cảnh lịch sử hồi đó, vào thời mà 
khoa học còn là con số không. Y học cổ truyền trước tiên dưạ vào kinh 
nghiệm sử dụng. Các danh y đã rút tiả kinh nghiệm để hoàn thành các “Bản 
thảo”. Dùng thuốc là bước sau cuả chẩn đoán bằng tứ chẩn: vọng (nhìn), văn 
(nghe) vấn (hỏi), thiết (xem mạch). Tuy không có ống nghe và siêu âm 
nhưng xem mạch ở ba bộ “thốn, quan, xích” ở cả hai tay (6 điểm) nên có thể 
biết rành rẽ bệnh tình, theo đó mà đưa ra bài thuốc ; người xưa ít khi dùng 
độc vị mà thường kết hợp nhiều vị với đủ khung “quân, thần, ta,ù sứ”. Các 
danh y như Hải thượng lãn ông, Tuệ tĩnh là những người tiên phong. Tiếc 
rằng hậu thế không học được hết tài nghệ cuả người xưa, kèm thêm tài liệu 
thất lạc, học truyền khẩu nên không tận dụng được tinh hoa và mai một dần. 
Vì thế việc làm cuả thế hệ chúng ta là dùng phương tiện hiện đại để kiểm 
chứng, phát huy cái hay, uốn nắn những sai lệch thiếu sót. Và hạt bí đỏ là 
một ví dụ. 
· Lời dạy lưu truyền là hạt bí trị bệnh tiết niệu. Kiểm chứng khoa học 
không thấy khả năng kháng khuẩn và thông tiểu nhưng nó lại kích ứng bàng 
quang, gây co thắt. 
· Người xưa dùng hạt bí đỏ trong chứng phì đại tuyến tiền 
liệt.(Nahrstedt A. Pflanzliche Urologica 1993) Theo hiểu biết ngày nay là 
không đúng. Tuyến tiền liệt phì đại chèn ép làm nghẹt ống thoát tiểu ; điều 
cần làm là thông tiểu và làm roãi cơ vòng để mở khẩu độ ống thoát tiểu. 
Đúng ra là dùng thuốc chẹn alpha-adrenergic chuyên biệt tiết niệu là 
moxisylite (Uro-alpha)– Người xưa không dùng độc vị mà kết hợp với vài vị 
nữa. Biết đâu thuốc kết hợp khác có tác dụng chẹn alpha-adrenergic hoặc 
roãi cơ vòng ; còn hạt bí co thắt bọng đái ; nghĩa là tấn công nhiều mặt. Đây 
chính là việc cần làm, tìm bài thuốc và giải phương các bài thuốc này. Tại 
Aâu châu, các nhà Y học Đức đã đi tiên phong trong lãnh vực này, họ 
nghiên cứu nghiêm chỉnh, khách quan, trung thực và không thành kiến. Hiện 
nay Nhật, Singapore, Trung quốc đang tập trung khảo sát dược liệu . 
e.5- Ung thư 
Chúng ta biết rằng tiền liệt tuyến (có nhiệm vụ sinh tinh dịch) bao 
quanh ống thoát tiểu từ bàng quang ra dương vật. Tiền liệt tuyến phì đại 
(thường gặp ở đàn ông lớn tuổi) có biểu hiện bí tiểu, muốn tiểu mà tiểu 
không được, mỗi lần chỉ đái được một ít, vừa tiểu xong lại buồn tiểu nữa, 
gần như thường xuyên gác cửa cầu tiêu. Luôn luôn tức bụng, bọng đái đầy 
nước tiểu nhưng không thoát ra được, đúng là “tức vỡ bọng đái”. Hạt bí đỏ 
kích ứng bàng quang nghĩa là tăng áp lực ở bàng quang, nhưng lống thoát bị 
nghẹt nên càng tức bụng hơn. 
Nguyên nhân gây tiền liệt tuyến phì đại hoặc ung thư là do testosteron 
và dẫn chất. Hạt bí đỏ có các phytosterol . Testosteron và phytosterol cùng 
có nhân sterol. Các thụ thể cuả testosteron nhận diện nhầm và nhận 
phytosteron. Chúng ta ví dụ thụ thể như ổ khoá, còn testosteron là chìa khoá 
; chúng chỉ phát huy khả năng nếu khoá tra vào chìa. Với cấu trúc gần giống 
testosterol, phytosterol được coi như chiả khoá giả, nó cũng tra được vào ổ 
khoá nhưng tác dụng rất yếu. Đó là cơ chế ngăn chặn ung thư cuả 
phytosterol. Miersch WDE. Benigne prostatahyperplasie. DAZ 1993) 
Bệnh ung thư ở phụ nữ. Các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng, 
ung thư tử cung thường liên quan đến estrogen. Các thực phẩm có 
phytosterol như đậu nàh, hạt bí đỏ phần nào có ích trong việc ngăn chặn các 
loại ung thư này. Xin nhấn mạnh rằng, những thực phẩm này không thay thế 
được thuốc trị bệnh, chúng chỉ là thực phẩm hỗ trợ, tỏ ra hữu hiệu trong việc 
ngăn chặn mà thôi. 
Điều khuyến cáo thực tiễn là hãy tăang sử dụng sản phẩm từ đậu 
nành, ăn thêm hạt bí đỏ thay vì hạt dưa nhưng không ăn nhiều. 
F- Loài gần giống: 
Bí đỏ mì sợ = Spaghetti squash 
Bề ngoài có hình dáng và màu sắc giống dưa bở. 100g Bí này chỉ sinh 
33 calori. Nó có rất ít chất bổ dưỡng. Sau khi luộc và bócvỏ, đánh tơi lên sẽ 
xuất hiện những mớ rối trông như mì sợi, do đó có tên Bí đỏ mì sợi. Bí này 
có tính nhuận trường, dùng làm thực phẩm gìam thân trọng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 5_5739.pdf 5_5739.pdf