Xuất xứ: 
Bản Kinh
Tên Hán Việt khác: 
Sơn chi tử (TQdhđtđ), Mộc ban (Bản kinh), Việt đào (Biệt Lục), Tiên 
chi (Bản Thảo Cương Mục), Chi tử, Tiên tử, Trư đào, Việt đông, Sơn chi 
nhân, Lục chi tử, Hồng chi tử, Hoàng chi tử, Hoàng hương ảnhtử (Hòa Hán 
Dược Khảo), Dành dành (Việt Nam). 
Tên khoa học: 
Gardenia jasminoides ellis (=gardenia florida linn).
Họ khoa học: 
Họ Cà Phê (Rubiaceae).
Mô tả: 
Cây nhỏ, nhẵn, cành mềm khía rãnh dọc, lá mọc đối hay mọc vòng 3, 
hình thuôn trái xoan, đôi khi bầu dục dài, tù và có mũi nhọn ở đỉnh, hình 
nêm ở gốc, màu nâu đen bóng ở trên mặt, nhạt hơn ở mặt dưới, dai, gân 
mảnh nổi rõ, lá kèm mềm, nhọn đầu ôm lấy cả cành như bẹ. Hoa mọc đơn 
độc ở đầu cành, trắng, rất thơm. Cuống có 6 cạnh hình cánh. Đài 6, thuôn 
nhọn đầu, ống đài có 6 cánh dọc. Tràng 6, tròn ở đỉnh, ống tràng nhẵn cả hai 
mặt. Nhị 6, chỉ ngắn, bao phấn tù. Bầu 2 ô không hoàn toàn, vòi dài bằng 
ống tràng noãn rất nhiều. Quả thuôn bầu dục có đài còn lại ở đỉnh, có 6-7 
cạnh dọc có cánh. Hạt rất nhiều,dẹt. Ra hoa từ tháng 4-11. Quả tháng 5-12
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Dược học chi tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC 
CHI TỬ 
Xuất xứ: 
Bản Kinh 
Tên Hán Việt khác: 
Sơn chi tử (TQdhđtđ), Mộc ban (Bản kinh), Việt đào (Biệt Lục), Tiên 
chi (Bản Thảo Cương Mục), Chi tử, Tiên tử, Trư đào, Việt đông, Sơn chi 
nhân, Lục chi tử, Hồng chi tử, Hoàng chi tử, Hoàng hương ảnh tử (Hòa Hán 
Dược Khảo), Dành dành (Việt Nam). 
Tên khoa học: 
Gardenia jasminoides ellis (=gardenia florida linn). 
Họ khoa học: 
Họ Cà Phê (Rubiaceae). 
Mô tả: 
Cây nhỏ, nhẵn, cành mềm khía rãnh dọc, lá mọc đối hay mọc vòng 3, 
hình thuôn trái xoan, đôi khi bầu dục dài, tù và có mũi nhọn ở đỉnh, hình 
nêm ở gốc, màu nâu đen bóng ở trên mặt, nhạt hơn ở mặt dưới, dai, gân 
mảnh nổi rõ, lá kèm mềm, nhọn đầu ôm lấy cả cành như bẹ. Hoa mọc đơn 
độc ở đầu cành, trắng, rất thơm. Cuống có 6 cạnh hình cánh. Đài 6, thuôn 
nhọn đầu, ống đài có 6 cánh dọc. Tràng 6, tròn ở đỉnh, ống tràng nhẵn cả hai 
mặt. Nhị 6, chỉ ngắn, bao phấn tù. Bầu 2 ô không hoàn toàn, vòi dài bằng 
ống tràng noãn rất nhiều. Quả thuôn bầu dục có đài còn lại ở đỉnh, có 6-7 
cạnh dọc có cánh. Hạt rất nhiều, dẹt. Ra hoa từ tháng 4-11. Quả tháng 5-12. 
Địa lý: 
Mọc hoang và được trồng khắp nước có nơi dùng làm cây cảnh hoặc 
trồng để nhuộm. 
Phần dùng làm thuốc: 
Dùng quả phơi khô [gọi là Chi tử] (Fructus Gareniae). 
Thu hái: 
Vào sau tiết Hàn lộ hàng năm, quả chín liên tục, lúc này vỏ quả ngả 
dần thành màu vàng lá có thể hái được, hái quả sớm hay quá muộn đều có 
thể ảnh hưởng tới phẩm chất, nên hái bằng tay. 
Mô tả dược liệu: 
Quả Chi tử khô hình trứng hoặc bầu dục, hai đầu nhỏ dần khoảng 15-
18mm không tính dài khô ở đỉnh, thô khoảng 9-12m, phấn trên có 6 lá đài 
tồn tại, teo hình mũi mác, nhỏ dài thường không toàn vẹn, vỏ quả ngoài cấu 
thành bởi hai đài liền tồn tại, chung quanh có 6 cạnh dọc hình sợi, phần dưới 
có gốc tàn cuống quả. Vỏ ngoài màu vàng đỏ hoặc nâu hơi bóng mượt, có 
nhiều gân nhỏ, và quả chất cứng mỏng, nửa trong suốt, trong có hai buồng 
gồm nhiều hạt hình tròn trứng, dẹt, phẳng, vỏ hạt màu đỏ vàng, ngoài có vật 
chặt dính đã khô, giữa chúng liên kết thành khối hơi có mùi thơm đặc biệt. 
Chi tử lấy loại nhỏ, vỏ mỏng màu vàng đỏ là thượng phẩm. Thường 
dùng loại mọc ờ vùng rừng núi, quả nhỏ chắc nguyên quả, vỏ mỏng vàng, 
trong đỏ thẫm có nhiều hạt, thơm khô không mốc mọt, không lẫn tạp chất là 
tốt. Còn Chi tử nhân là hạt đã được bóc sạch vỏ quả, màu nâu vàng hay đỏ 
hồng, không vụn nát là tốt (Dược Tài Học). 
Bào chế: 
+ Hái trái về bỏ tai và vỏ, chỉ lấy hạt, ngâm với nước sắc Cam thảo 
một đêm, vớt ra phơi khô tán bột dùng (Lôi Công Bào Chích Luận). 
+ Trị bệnh ở thượng tiêu, trung tiêu thì dùng cả vỏ xác, trị hạ tiêu thì 
bỏ vỏ xác rửa sạch nước màu vàng rồi sao mà dùng, trị bệnh thuộc huyết thì 
sao đen dùng (Đan Khê Tâm Pháp). 
+ Sau khi hái về phơi hoặc sấy khô ngay, nếu sấy thì lúc đầu lửa to về 
sau nhỏ dần, đảo trộn nhẹ để làm vỏ quả không bị trầy sát, cũng đề phòng 
tình trạng ngoài khô trong ướt, dễ thối mốc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ 
Điển). 
+ Quả chín kẹp lẫn với ít phèn chua, cho vào nước sôi cùng nấu độ 20 
phút, vớt ra phơi khô vỏ, lại sấy khô cho giòn. Khi dùng muốn dùng sống, 
sao hoặc đốt cháy tùy từng trường hợp (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). 
Thành phần hóa học: 
+ Gardenoside, Geniposide, Genipin-1-Gentiobioside, Shanzhiside, 
Gardoside, Scandoside methyl Esther, Deacetylaspelurosidic acid, Methyl 
Deacetylaspelurosidate, 10-Acetylgeniposide (Lida J và cộng sự, Chem 
Pharm Bull 1991, 39 (8): 2057). 
+ 6”-p-Coumaroyl Genipin Gentiobioside (Nishizawa M và cộng sự, 
Chem Pharm Bull 1988, 36 (1): 87). 
+ Chlorogenic acid, 3, 4-di-O-Caffeoylquinic acid, 3-O-Caffeoyl-4-O-
Sinapoyl Quinic acid, 3,5-di-O-Caffeoyl-4-O-(3-Hydroxy-3-Methyl) 
Glutaroyl Quinic acid (Nishizawa M và cộng sự, Chem Pharm Bull 1988, 36 
(1): 87). 
+ Crocetin (Tần Vĩnh Kỳ, Dược Học Học Báo 1964, 11 (5): 342). 
Tác dụng dược lý: 
+ Tác dụng giải nhiệt: Nước sắc chi tử có tác dụng ức chế trung khu 
sản nhiệt, tác dụng giống như vị Hoàng liên, Hoàng cầm nhưng yếu hơn 
(Trung Dược Học). 
+ Tác dụng lợi mật: Chi tử làm tăng tiết mật. Thực nghiệm chứng 
minh trên súc vật sau khi thắt ống dẫn mật thấy Chi tử có tác dụng ức chế 
không cho Bilirubin trong máu tăng. Dịch Chi tử làm tăng co bóp túi mật 
(Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). 
+ Tác dụng cầm máu: Chi tử sao cháy thành than có tac dụng cầm 
máu (Trung Dược Học). 
+ Tác dụng kháng khuẩn: In vitro, nước sắc Chi tử có tác dụng ức chế 
trực khuẩn lỵ, tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh (Sổ Tay Lâm Sàng Trung 
Dược). 
+ Tác dụng an thần: Nước sắc chi tử có tác dụng trị mất ngủ trong các 
bệnh viêm nhiễm do sốt cao làm não xung huyết và hưng phấn thần kinh. 
Thực nghiệm cũng chứng minh nước sắc kiệt Chi tử có tác dụng an thần đối 
với chuột trắng (Trung Dược Học). 
+ Tác dụng hạ huyết áp: Trên súc vật thực nghiệm chứng minh rằng 
nước sắc Chi tử có tác dụng hạ áp (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). 
+ Trên động vật thực nghiệm, thấy nước sắc chi tử có tác dụng ức chế 
tế bào ung thư trong nước bụng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). 
Tính vị: 
+ Vị đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu). 
+ Vị đắng, tính lạnh, không độc (Lâm Sàng Thường Dụng Trung 
Dược Thủ Sách). 
Quy kinh: 
+ Vào kinh Tâm, Phế, Vị (Đông Dược Học Thiết Yếu). 
+ Vào kinh Tâm, Phế, Can, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược 
Thủ Sách). 
Tác dụng: 
+ Trị bứt rứt, buồn phiền, khó chịu, bồn chồn trong ngực, mất ngủ, 
những chứng huyết trệ dưới rốn, tiểu không thông (Trân Châu Nang). 
+ Thanh nhiệt ở thượng tiêu (Tâm, Phế), thanh uất nhiệt ở phần huyết 
(Đông Dược Học Thiết Yếu). 
+ Thanh nhiệt, lợi thấp, lương huyết (sao đen), thanh nhiệt ở tam tiêu 
(Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). 
Chủ trị: 
+ Trị nóng nẩy, bồn chồn do nhiệt chứng, vàng da do thấp nhiệt, mắt 
đỏ, họng đau, chảy máu cam, lở miệng, nước tiểu đỏ. Đắp ngoài trị sưng ứ 
(Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). 
Liều dùng: Dùng từ 8 – 20g. 
Kiêng kỵ: 
+ Trị tâm phiền, bứt rứt, cơ thể nóng, mắt đỏ, thổ huyết, chảy máu 
cam (Đông Dược Học Thiết Yếu). 
+ Tỳ hư, tiêu chảy, tỳ vị hư hàn mà không có thấp nhiệt, uất hỏa: cấm 
dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). 
Cách dùng: Dùng sống có tác dụng thanh nhiệt (dùng chữa sốt), sao 
vàng có tác dụng tả hỏa (nóng nảy trong người), sao đen có tác dụng cầm 
máu. 
Đơn thuốc kinh nghiệm: 
+ Trị sau khi bị thương hàn có mồ hôi ra, mửa, ngủ không được, bứt 
rứt không yên: Chi tử 14 trái, Hương xị 4 chén, sắc uống (Chi Tử Xị Thang 
– Thương Hàn Luận). 
+ Trị chảy máu cam: Sơn chi tử, sao cháy đen, thổi vào mũi nhiều lần 
có hiệu quả (Lê Cư Sỉ Giản Dị phương). 
+ Trị tiểu tiện không thông: Chi tử 14 quả, Tỏi (loại 1 tép) 1 củ, 1 
chút muối, gĩa nát, dán vào chỗ rốn và bọng đái một chốc sẽ thông ngay 
(Phổ Tế phương). 
+ Trị tiểu gắt, tiểu buốt, tiểu ra máu: Sơn chi sống tán bột, Hoạt thạch, 
lượng bằng nhau, uống với nước Hành (Kinh Nghiệm Lương phương). 
+ Trị đại tiện ra máu tươi: Chi tử nhân, sao cháy đen, uống 1 muỗng 
với nước (Thực Liệu phương). 
+ Trị tiêu ra máu do độc rượu: Sơn chi gìa, sấy khô, tán bột, uống với 
nước ở giữa lòng sông (Thánh Huệ phương). 
+ Trị tiêu ra máu do nhiệt độc: Chi tử 14 trái, bỏ vỏ, gĩa nát, tán bột, 
trộn mật làm viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 3 viên, ngày 3 lần, có 
thể uống với nước (Trửu Hậu phương). 
+ Trị kiết lỵ lúc sinh: Chi tử tán bột, uống với rượu nóng, lúc đói, 
mỗi lần một muỗng canh, bệnh nặng uống không quá 7 lần (Thắng Kim 
phương). 
+ Trị phụ nữ bị phù do thấp nhiệt khi có thai: Sơn chi tử 1 chén, sao, 
tán bột. Mỗi lần uống 8 – 12g với nước cơm hoặc làm viên uống (Đan Khê 
Tâm Pháp). 
+ Trị phù thủng do nhiệt: Sơn chi tử nhân, sao, nghiền. Mỗi lần uống 
12g với nước cơm. Nếu nhiệt ở thượng tiêu thì dùng luôn cả xác (Đan Khê 
Tâm Pháp). 
+ Trị hoắc loạn chuyển gân, chuột rút, bụng ngực căng đầy, chưa nôn 
vàtiêu được: Chi tử 27 trái, tán bột, uống với rượu nóng (Trửu Hậu phương). 
+ Trị trong bụng đau xóc do lạnh và nóng xung đột nhau, ăn uống 
không được: Sơn chi tử, Xuyên ô đầu, 2 vị bằng nhau, tán bột, hồ với rượu 
làm viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 15 viên với nước Gừng sống. 
Nếu đau ở bụng dưới thì uống với nước Hồi hương (Bác Tễ phương). 
+ Trị đau nóng ở vùng dạ dày: Sơn chi tử lớn 7 - 9 trái, sao đen, sắc 
với 1 chén nước còn 7 phân, uống với nước Gừng sống. Nếu không bớt thì 
dùng với 4g Huyền minh phấn thì ngưng ngay (Đan Khê Tâm Pháp). 
+ Trị bệnh về khí của Ngũ tạng, bổ âm huyết: Chi tử sao đen, tán bột, 
sắc với Gừng sống uống (Đan Khê Tâm Pháp). 
+ Trị bệnh thi chú, đau xóc lên tim ngực liên tục: Chi tử 21 trái, đốt, 
tán bột, uống với nước (Trửu Hậu phương). 
+ Trị sốt cao sau khi ăn hoặc sau khi giao hợp đau muốn chết: Chi tử 
30 trái, nước 3 thăng. Sắc còn 1 thăng, uống cho ra mồ hôi (Mai Sư 
phương). 
+ Trị trẻ nhỏ bứ rứt, nổi cuồng, tích nhiệt ở dưới, mình nóng phát 
cuồng, hôn mê, không ăn: Chi tử 7 trái, Đậu xị 20g. Sắc với 1 chén nước 
còn 7 phân, uống vào công hiệu ngay, có thể mửa (Tập Hiệu phương). 
+ Trị bàn trường điếu khí: Đào nhân 20g, 1 chút Thảo ô đầu, tất cả sao 
qua rồi bỏ Ô đầu đi, thêm Bạch chỉ 4g. Tán bột, mỗi lần uống 2g với rượu 
Hồi hương và Hành trắng (Phổ Tế phương). 
+ Trị mắt đỏ kèm táo bón: Sơn chi tử 7 trái, dùi lỗ, nướng chín, sắc 
với 1 thăng nước còn nửa thăng, bỏ bã, đồng thời cho vào 12g bột Đại 
hoàng, uống nóng (Phổ Tế phương). 
+ Trị ăn vào mửa ra ngay: Chi tử 20 trái, sao qua, bỏ vỏ, sắc uống 
(Quái Chứng Kỳ phương). 
+ Trị đầu đau do phong đàm không chịu nổi: Chi tử (bột), trộn mật, 
ngậm trên lưỡi, hễ nôn ra là bớt (Binh Bộ Thủ Tập phương). 
+ Trị mũi nổi hột thịt đỏ như mũi sư tử: Chi tử sao, tán bột, cùng với 
sáp vàng làm viên bằng viên đạn lớn. Mỗi lần dùng 1 viên, nhai nhỏ với 
nước trà, ngày 2 lần. Kiêng rượu, thức ăn chiên, xào (Bản Sự phương). 
+ Trị mũi nổi hột thịt đỏ như mũi sư tử: Sơn chi, Tang bạch bì, Hoàng 
cầm, Cam thảo, Cát cánh, Ngũ vị tử, Can cát, các vị bằng nhau, sắc uống 
(Bản Sự phương). 
+ Trị đơn độc do hỏa nhiệt: Chi tử nhân, đốt, tán bột, trộn nước tẩm 
vào (Mai Sư phương). 
+ Trị phỏng chưa phát ra: Chi tử nhân, đốt, tán bột, trộn với dầu mè, 
đắp, băng lại (Thiên Kim phương). 
+ Trị lở ngứa trong mí mắt: Chi tử, đốt, tán bột, xức vào (Bảo Ấu Đại 
Toàn phương). 
+ Trị sưng đau do gãy xương: Chi tử gĩa nát, trộn với Bạch miến, đắp 
vào (Tập Giản phương). 
+ Trị chó dại cắn: Chi tử bì (đốt, tán bột), Thạch lưu hoàng, 2 vị bằng 
nhau, tán bột xức vào (Mai Sư phương). 
+ Trị phỏng do nhiệt: Chi tử, tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, 
phết lên chỗ đau (Cấp Cứu phương). 
+ Trị thương hàn thấp nhiệt sinh ra vàng úa, bụng lớn dần: Chi tử 14 
trái, Nhân trần 240g, Đại hoàng 120g, 1 đấu nước. Trước hết sắc Nhân trần 
giảm 6 phần rồi bỏ cả 2 vị vào sắc còn 3 thăng, chia làm 3 lần. Khi nào tiêu 
thông như nước Bồ kết (có khi đỏ), uống một đêm thì giảm, màu vàng khè 
trên da tự nhiên theo nước tiểu mà ra hết (Nhân Trần Đại Hoàng Thang - 
Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
+ Trị vàng da, mình nóng: Sơn chi, Cam thảo, Hoàng bá sắc uống 
(Chi Tử Hoàng Bá Thang - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
+ Trị sau khi bị thương hàn sinh đầy bụng, bứt rứt, nằm ngồi không 
yên, mửa ra thì đỡ: Sơn chi, Hậu phác, Chỉ thực, sắc uống (Chi Tử Hậu Phác 
Thang - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
+ Tả hỏa ở tiểu trường: dùng Sơn chi, Xích phục linh, Mộc thông, 
Hoạt thạch, Trạch tả các vị bằng nhau. Tả hỏa hữu dư của Tâm kinh, dùng 
Sơn chi, Liên kiều, Mạch môn đông, Trúc diệp, Đăng tâm thảo, Cam thảo 
(sống). Hoàng liên các vị bằng nhau (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
+ Trị vàng da vì dùng nhiều rượu sinh nóng người: Sơn chi, Nhân trần 
cao, Hoạt thạch, Xa tiền tử, Tần giao, Hoàng liên thảo, Mục túc, các vị bằng 
nhau, sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
+ Trị chảy máu cam, mửa ra máu do huyết nhiệt, lỵ ra máu, huyết ra 
lai rai: Chi tử 16g, Hoàng cầm 12g, Bạch mao căn 20g, Tri mẫu 12g, Cát 
cánh 8g, Cam thảo 4g, Trắc bá diệp 12g, Xích thược 12g, sắc uống (Lương 
Huyết Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). 
+ Trị bàng quang viêm cấp tính, tiểu ra máu: Chi nhân 16g, Mao căn 
20g, Đông quỳ tử 12g, Cam thảo 8g, sắc uống (Chi Tử Nhân Tán - Lâm 
Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). 
+ Trị viêm gan vàng da cấp tính do thấp nhiệt, nóng nảy trong ngực, 
tiểu vàng, tiểu đỏ, vàng toàn thân: Chi tử 16g, Hoàng bá 12g, Cam thảo 4g, 
sắc uống (Chi Tử Bá Bì Thang - (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ 
Sách). 
Tham khảo: 
+ Chi tử nhẹ thoảng có hình phổi màu đỏ là tượng của hỏa nên tả 
được hỏa trong Phế, dùng nó có 4 tác dụng: Thứ nhất là nhiệt bám vào Tâm 
kinh, hai là trừ được bứt rứt, ba là khử hư nhiệt ở thượng tiêu, bốn là trị 
phong (Trân Châu Nang). 
+ Chi tử tả hỏa của tam tiêu và uất hỏa trong bỉ khối, thanh huyết 
trong vị quản, tính nó chạy quanh co khuất khúc, xuống dưới có thể giáng 
hỏa theo đường tiểu ra ngoài. Người đau tim hơi lâu không nên uống ấm, uất 
hỏa ngược lên sườn, vì vậy các phương thuốc có dùng Chi tử làm thuốc dẫn 
nhiệt thì tà dễ phục núp và bệnh dễ lui (Bản Thảo Diễn Nghĩa). 
+ Sơn chi giải được độc của Ngọc chi hoa [Dương trịch trục] (Bản 
Thảo Tập Chú). 
+ Sơn chi tử giải được phong nhiệt độc, giải được nhiệt độc lúc thời 
dịch, 5 chứng vàng da, ngũ lâm, thông tiểu, tiêu khát, sáng mắt, trúng độc, 
sát trùng độc (Dược Tính Bản Thảo). 
+ Chi tử bẩm thụ được cái khí đắng mà rất lạnh, đắng lạnh thì tổn vị 
thương huyết. Hễ Tỳ Vị suy nhược thì cấm dùng. Huyết hư phát sốt cấm 
dùng. Tính nó có thể tả được hỏa hữu dư, Tâm Phế không có tà nhiệt kết ở 
tiểu trường thì không nên dùng. Lở loét vì khí huyết hư không thể thu liễm, 
không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ). 
+ Màu vàng của Chi tử còn được dân gian dùng làm màu nhuộm trong 
lúc nấu hoặc chế biến thức ăn, vì không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ 
Điển). 
Phân biệt: 
(1) Cây Dành dành bắc (Gardenia tonkinensis Pitard): cây cao nhỡ 1-
4m, rất nhẵn. Cành non dẹt, màu nâu đậm, sau màu xám, nhạt, tròn. Lá hình 
trái xoan nhọn đầu và gốc, màu nâu đỏ và hơi bóng ở mặt trên, nhạt hơn ở 
mặt dưới cuống ngắn, lá kèm hình bầu dục, nhọn đầu, mặt trong có lông tơ 
trắng. Hoa nở tháng 5-6 quả chín từ tháng 8-11. Cây mọc phổ biến, thường 
trồng làm cảnh vì có hoa lớn, dẹp. Quả có thể dùng để nhuộm. 
(2) Cần phân biệt với cây Dành dành láng (G. philastrei Pit) có ở 
Phước Tuy, Nha Trang. Dành dành Ăng co (G, angkorensis Pitard), có ở 
Nha Trang, Hòn Tre. Dành dành Thái (G. sotepensis Hutc in Craib) có ở Đà 
Lạt. Dành dành GODFROY (G. godlefroyana O, Ktze). 
(3) Ở Trung Quốc có cây Thủy chi tử (Gardenia radicans Thumb) là 
cây bụi thấp xanh quanh năm, thân có nhiều cành, mọc nghiêng như Chi tử, 
chỉ khác là hoa xếp chồng, thông thường thì không kết quả hay kết quả rất ít, 
hoa quả nhỏ hơn Chi tử. Lá hình nhọn, lộn ngược hay hình trứng đảo ngược, 
có 2 loại lá to và lá nhỏ. Thường trồng ở công viên làm cảnh, quả không làm 
thuốc. 
(4) Cần phân biệt với quả Giun hay Sử quân tử (xem) là quả khô của 
cây Sử quân (Quisqualis indica L.) họ Combretaceae là vị thuốc dùng để tẩy 
giun có hình giáng hao hao giống quả Chi tử (loại nguyên). 
(5) Ngoài loài Chi tử nói trên, ở miền núi có một loài mọc hoang gọi 
là Sơn chi tử, dáng cây nhỏ hơn, người ta cũng dùng làm thuốc. 
Tên gọi: Chi có nghĩa là chén đựng rượu, tử là hạt quả. Vì quả như cái 
chén uống rượu nên gọi là Chi tử (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 44_7884.pdf 44_7884.pdf