Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 312
GÂY MÊ HỒI SỨC CHO PHẪU THUẬT CẮT BÀNG QUANG TẬN GỐC 
KÈM TẠO HÌNH BÀNG QUANG BẰNG RUỘT 
Trần Thị Ngọc Phượng*, Huỳnh Thị Thỉ*, Trần Đỗ Anh Vũ*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc kèm tạo hình bàng quang tân tạo bằng ruột phát triển mạnh 
trong những năm gần đây tại bệnh viện Bình Dân. Các nghiên cứu về phương diện gây mê hồi sức trong nước 
cho phẫu thuật này hầu như chưa được tiến hành. 
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm gây mê hồi sức trong phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần kèm tạo hình 
bàng quang tân tạo bằng ruột. Xác định hiệu quả của phương pháp gây mê toàn diện kết hợp gây tê ngoài màng 
cứng (NMC) cho phẫu thuật. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả. Từ tháng 01/2012 đến tháng 03/2013, tại bệnh viện Bình Dân, 
chúng tôi nghiên cứu 53 trường hợp ASA từ 1 đến 2, được gây mê hồi sức cho mổ mở cắt bàng quang, tạo hình 
bàng quang tân tạo bằng ruột. 
Kết quả: tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu: 58,5 ± 10,9 tuổi (35 – 81). Thời gian gây mê phẫu thuật 
407 ± 58 phút (300 – 520 phút). Lượng máu mất trung bình 464 ± 269 mL (200 – 1500 mL). Có 21 trường hợp 
(39,62 %) cần truyền máu. Thời gian lưu ICU 12,03 ± 4,93 giờ (4 – 27 giờ), số ngày hậu phẫu 15,8 ± 5,7 ngày (8 
– 41 ngày). Có 18/53 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng phối hợp gây mê toàn diện. Tất cả các trường hợp 
có sử dụng catheter NMC đều đáp ứng đủ nhu cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, không sử dụng thêm opioids 
tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê. 
Kết luận: phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần kèm tạo hình bàng quang tân tạo bằng ruột tạo ra rất nhiều 
khó khăn cho công việc gây mê hồi sức. Phương pháp gây mê toàn diện phối hợp gây tê ngoài màng cứng tạo ra 
kết quả vô cảm trong mổ cũng như chất lượng giảm đau sau mổ rất tốt. 
Từ khóa: cắt bàng quang tận gốc, bàng quang tân tạo bằng ruột, gây mê hồi sức. 
ABSTRACT 
ANESTHESIA IN THE SURGERY OF RADICAL CYSTECCOMY AND ORTHOTOPIC ILEAL 
NEOBLADDER 
Tran Thi Ngoc Phuong, Huynh Thi Thi, Tran Do Anh Vu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 312 - 317 
Background: In recent years, the surgery of radical cysteccomy and orthotopic ileal neobladder has been 
widely used at Binh Dan hospital. Domestic studies in terms of anaesthesia hardly have been carried out. 
Objectives: This study investigates the features of anesthesia in the surgery of radical cysteccomy and 
orthotopic ileal neobladder as well as determines the effects of a combined general - epidural anesthesia technique 
in operation. 
Methods: cross-sectional study. 53 ASA physical status 1 - 2 patients undergoing the surgery of 
radical cysteccomy and orthotopic ileal neobladder were studied at at Binh Dan hospital from 2012 January 
to 2013 March. 
* Khoa Phẫu thuật, Bệnh viện Bình Dân **Khoa Niệu B, Bệnh viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Đỗ Anh Vũ ĐT: 0903181976 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 313
Results: Average ages: 58.5 ± 10.9 years (35 – 81). Duration of surgery: 407 ± 58 minutes (300 – 520). 
Mean estimated blood loss was 464 ± 269 mL (200 – 1500 mL). There were 21 cases (occupied 39.62 %) needed 
transfusion. Patients’duration stayed at ICU: 12.03 ± 4.93 hours (4 – 27). The postoperative days: 15.8 ± 5.7 days 
(8 – 41). There were 18 patients among 53 patients who were used the combined general - epidural anesthesia 
technique. In all cases used epidural, the patients had no negative responses to the stimulus provided during the 
surgical procedure. Anesthesiologists rarely needed to administer intravenous opioids except a conductive dose. 
Conclusions: The surgery of radical cysteccomy and orthotopic ileal neobladder causes great deal of 
considerable difficulty when administering anaesthesia. The combined general - epidural anaesthesia technique 
results in both efficient anaesthesia and an extremely positive postoperative analgesia. 
Keywords: radical cystecomy, ileal neobladder, anesthesia. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc kèm tạo 
hình bàng quang tân tạo bằng ruột phát triển 
mạnh trong những năm gần đây tại bệnh viện 
Bình Dân. 
Với đặc điểm thời gian phẫu thuật kéo dài, 
dự trù mất máu nhiều, trên cơ địa người bệnh 
bướu bàng quang thường là người cao tuổi với 
nhiều bệnh nội khoa đi kèm, nhiều nguy cơ tai 
biến hậu phẫu, thậm chí tử vong, tất cả tạo ra 
một thách thức cho công việc gây mê hồi sức để 
đảm bảo an toàn cho người bệnh(2,5). 
Các nghiên cứu về phương diện gây mê hồi 
sức trong nước cho phẫu thuật này hầu như 
chưa được tiến hành. 
Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy sự 
kết hợp của gây mê toàn diện với gây tê ngoài 
màng cứng giúp giảm lượng máu mất, cũng như 
cải thiện chất lượng giảm đau sau phẫu thuật, 
giúp bệnh nhân hồi phục sớm hơn. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này 
nhằm mục tiêu: 
- Khảo sát các đặc điểm gây mê hồi sức trong 
phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần kèm tạo 
hình bàng quang tân tạo bằng ruột. 
- Xác định hiệu quả của phương pháp gây 
mê toàn diện kết hợp gây tê ngoài màng cứng 
cho phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Cắt ngang, mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân có chỉ định cắt bàng quang 
toàn phần, tạo hình bàng quang tân tạo bằng 
ruột tại bệnh viện Bình Dân. 
Phương pháp tiến hành 
Đánh giá bệnh nhân trước mổ 
Đánh giá bệnh nhân trước mổ gồm: 
- Bệnh sử và khám lâm sàng: tổng trạng 
chung, chức năng tim mạch, hô hấp, bệnh đi 
kèm. 
- Cận lâm sàng: công thức máu, ion đồ máu, 
đường huyết, chức năng đông máu toàn bộ, 
chức năng gan, chức năng thận, Xquang ngực 
thẳng. Đánh giá tình trạng tim mạch gồm ECG, 
siêu âm tim được làm theo chỉ định của bác sĩ 
tim mạch hoặc bác sĩ gây mê. Các xét nghiệm 
khác theo chỉ điểm của bệnh sử và thăm khám 
lâm sàng. 
- Đánh giá nguy cơ phẫu thuật theo ASA. 
Kỹ thuật gây mê hồi sức 
Đặt một hoặc hai đường truyền tĩnh mạch 
kim 18G, hoặc đặt catheter tĩnh mạch trung tâm. 
Đặt catheter ngoài màng cứng trước khi dẫn 
đầu gây mê. 
Tất cả các bệnh nhân đều được gây mê toàn 
diện có đặt ống nội khí quản, thông khí kiểm 
soát. 
Các phương tiện kiểm báo: 
- ECG 3 điện cực. 
- Huyết áp tự động xâm lấn hoặc không xâm 
lấn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 314
- CVP (nếu có). 
- Độ bão hòa oxy qua mạch nẩy (SpO2). 
- Phân áp CO2 trong khí thở ra (PetCO2). 
- Nồng độ khí mê isoflurane, sevoflurane 
trong khí thở ra. 
Dẫn đầu gây mê được thực hiện với thuốc 
Midazolam 1 – 2 mg, Sufentanil 10 – 15 mcg, 
thuốc mê tĩnh mạch Propofol 1,5 – 2,5 mg/kg, 
thuốc dãn cơ Rocuronium 0,6 mg/kg. 
Duy trì gây mê bằng thuốc mê hô hấp phối 
hợp truyền liên tục Sufentanil qua đường tĩnh 
mạch, hoặc hỗn hợp Bupivacaine 0,1% và 
Fentanyl 4 mcg/ml qua catheter ngoài màng 
cứng, để duy trì giảm đau liên tục trong mổ. 
Mục tiêu duy trì huyết áp ổn định trong khoảng 
20% mức cơ bản của bệnh nhân. 
Giảm đau sau mổ bằng đường tĩnh mạch với 
Paracetamol, NSAIDS phối hợp thêm các thuốc 
nhóm opioids; hoặc qua catheter ngoài màng 
cứng với hỗn hợp Bupivacaine 0,1 % và Fentanyl 
2 – 4 mcg/mL. 
Các biến số theo dõi và phân tích 
- Tuổi, giới, ASA. 
- Bệnh nội khoa kèm theo. 
- Các rối loạn và tai biến tim mạch, hô hấp 
quanh mổ. 
- Thời gian gây mê phẫu thuật. 
- Lượng máu mất, tổng lượng dịch truyền. 
- Số trường hợp phải truyền máu. 
- Thời gian lưu bệnh tại ICU. 
- Thời gian hậu phẫu. 
- Các tai biến, biến chứng, tử vong. 
- Các vấn đề liên quan catheter ngoài màng 
cứng chu phẫu: chất lượng giảm đau trong và 
sau mổ; tai biến, biến chứng liên quan catheter. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm phân 
tích thống kê SPSS 16.0 for Windows. 
Mức ý nghĩa trong toàn bộ nghiên cứu là P < 
0,05. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 01/2012 đến tháng 03/2013, chúng 
tôi thực hiện 53 trường hợp gây mê hồi sức cho 
mổ mở cắt bàng quang, tạo hình bàng quang tân 
tạo bằng ruột. 
Tất cả các trường hợp đều được gây mê toàn 
diện hoặc kết hợp gây tê ngoài màng cứng và 
gây mê toàn diện. 
Các kết quả ghi nhận được như sau: 
Bảng 1: Tuổi, giới, ASA 
Đặc điểm Số trường hợp (n = 53) 
Giới 
 Nam 51 (96,2%) 
 Nữ 2 (3,8%) 
Tuổi 58,5 10,9 (35 – 81) 
ASA 
 1 2 (3,8%) 
 2 51 (96,2%) 
Bảng 2: Bệnh kèm theo 
Bệnh kèm theo Số trường hợp (%) 
Tăng HA 15 (28,3%) 
Bệnh tim thiếu máu cục bộ 10 (18,9%) 
ECG bất thường 17 (32,1%) 
Lao phổi cũ, xơ phổi 5 (9,4%) 
Đái tháo đường 2 (3,8%) 
Suy thận 1 (1,9%) 
Bảng 3: Đặc điểm liên quan gây mê hồi sức 
Thời gian gây mê phẫu thuật 407 ± 58 phút (300 – 520 
phút) 
Lượng máu mất trung bình 464 ± 269 mL (200 – 1500 
mL) 
Lượng dịch truyền trung bình 2764 ± 655 mL (1500 – 4500 
mL) 
Số trường hợp cần truyền 
máu 
39,62 % (21 trường hợp) 
Thời gian lưu ICU 12,03 ± 4,93 giờ (4 – 27 giờ) 
Thời gian hậu phẫu 15,8 ± 5,7 ngày (8 – 41 ngày) 
Các tai biến biến chứng 
Không có trường hợp nào tử vong trong lúc 
nằm viện. 
Chỉ có 1 bệnh nhân lưu ICU 27 giờ do phản 
ứng sốt và suy hô hấp ngay sau phẫu thuật. Các 
trường hợp còn lại đều chỉ lưu lại ICU qua đêm 
để theo dõi, không có tai biến nặng về hô hấp và 
tim mạch. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 315
Các tai biến liên quan khác gồm: nhiễm 
trùng vết mổ 4 trường hợp, 3 trường hợp liệt 
ruột, 1 trường hợp bán tắc ruột, 1 trường hợp có 
dịch ổ bụng lượng vừa. 
Sự thay đổi huyết động trong mổ 
Tất cả các trường hợp phẫu thuật, chúng tôi 
đều kiểm soát rất chặt chẽ các yếu tố kích thích 
phẫu thuật, rối loạn nước điện giải, máu mất 
giúp mạch (M) và huyết áp (HA) nằm trong giới 
hạn cho phép. 
Gây tê ngoài màng cứng (NMC) phối hợp 
gây mê toàn diện 
Có 18/53 bệnh nhân được gây tê ngoài màng 
cứng phối hợp gây mê toàn diện. Tất cả các 
trường hợp có sử dụng catheter NMC đều đáp 
ứng đủ nhu cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, 
không sử dụng thêm opioids tĩnh mạch ngoại 
trừ liều khởi mê; thuốc mê hô hấp duy trì trong 
mổ < 1 MAC. 
Bảng 4: Thang điểm đau VAS (Visual Analog Scale) 
trên các bệnh nhân có giảm đau hậu phẫu qua catheter 
NMC 
VAS Giờ 0 
(tỉnh táo) 
Giờ 4 Giờ 8 Giờ 16 Giờ 24 Giờ 36 - 
72 
0 - 1 0 0 0 1 1 1 
> 1 - 3 3 9 12 14 16 16 
> 3 - 5 10 8 5 3 1 1 
> 5 - 8 5 1 1 0 0 0 
> 8 - 10 0 0 0 0 0 0 
Không có các tai biến nặng liên quan catheter 
NMC trong nhóm nghiên cứu này. 
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu: 
58,5 ± 10,9 tuổi (35 – 81). Tuổi tác không phải 
là chống chỉ định cho tạo hình bàng quang 
tân tạo bằng ruột. Những nghiên cứu cho 
thấy các bệnh nhân độ tuổi 80 vẫn an toàn 
cho phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng 
ruột(1). Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình của 
dân số ước lượng khoảng thời gian sống còn 
của bệnh nhân cũng là một cân nhắc khi thực 
hiện phẫu thuật. 
Kỹ thuật gây mê hồi sức 
Phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc kèm tạo 
hình bàng quang tân tạo bằng ruột có thể làm 
mất nhiều máu, dịch (do phơi bày tạng kéo dài) 
do đó cần có đường truyền với catheter lớn, và 
có thể cần đường truyền tĩnh mạch trung tâm 
cũng như theo dõi huyết áp xâm lấn. Thời gian 
tối thiểu của phẫu thuật là 4 đến 6 giờ. 
Với thời gian phẫu thuật kéo dài, nguy cơ 
mất máu nhiều, cũng như rối loạn nước, điện 
giải, các phương pháp gây tê vùng sẽ không phù 
hợp, mặc dù có những báo cáo cắt bàng quang 
tận gốc với gây tê vùng đơn thuần an toàn cho 
những bệnh nhân nguy cơ cao về hô hấp. 
Phương pháp vô cảm thường dùng và an 
toàn là gây mê toàn thân có đặt nội khí quản, sử 
dụng thuốc dãn cơ, có thể phối hợp đặt catheter 
ngoài màng cứng để giảm đau quanh mổ. Gây tê 
trục thần kinh trung ương có thể dẫn đến tăng 
nhu động ruột (tăng hoạt động hệ phó giao cảm 
do gây tê ức chế hệ thần kinh giao cảm), có thể 
gây khó khăn cho phẫu thuật viên trong việc tái 
tạo bàng quang bằng ruột. Để giảm ảnh hưởng 
này có thể sử dụng glucagon, papaverine, hoặc 
thuốc anticholinergic(5). 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng kỹ 
thuật gây mê cân bằng. Duy trì mê độ mê ổn 
định cho phẫu thuật bằng thuốc mê hô hấp, phối 
hợp truyền liên tục Sufentanil qua đường tĩnh 
mạch, hoặc hỗn hợp Bupivacaine 0,1% và 
Fentanyl 4 mcg/ml qua catheter ngoài màng 
cứng. Với kỹ thuật gây mê như trên, cộng với 
việc bù dịch, máu hợp lý theo nhu cầu của từng 
bệnh nhân, tất cả các bệnh nhân trong nhóm 
nghiên cứu đều ổn định huyết động trong suốt 
quá trình phẫu thuật, mặc dù thời gian gây mê 
phẫu thuật khá dài 407 ± 58 phút (300 – 520 
phút). Tuy vậy, để giữ được bệnh nhân ổn định 
suốt quá trình phẫu thuật kéo dài, nguy cơ rối 
loạn huyết động nhiều, đặc biệt trên các cơ địa 
bệnh lý, đòi hỏi người làm công tác gây mê hồi 
sức phải đầy đủ kinh nghiệm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 316
Các trường hợp có gây tê ngoài màng cứng 
phối hợp, chúng tôi có thể rút nội khí quản 
cho bệnh nhân rất sớm vì nhu cầu thuốc mê 
dùng để duy trì mê cho bệnh nhân giảm rất 
nhiều so với chỉ gây mê đơn thuần. 
Rối loạn chuyển hóa với bàng quang tân 
tạo bằng ruột 
Hội chứng mất muối và toan chuyển hóa là 
rối loạn thường gặp nhất khi thực hiện tạo hình 
bàng quang tân tạo bằng hồi tràng. Điều này là 
do sự tiếp xúc của nước tiểu với niêm mạc ruột 
của bàng quang tân tạo, thường xảy ra trong giai 
đoạn hậu phẫu sớm, khi lớp niêm mạc ruột chưa 
biến đổi theo thời gian. Do đó, đánh giá chức 
năng thận là điều bắt buộc khi chuẩn bị bệnh 
nhân trước phẫu thuật. Các biến chứng nhiễm 
toan chuyển hóa do tăng Cl- và K+ gây ra do 
bàng quang tân tạo cần được xử trí sớm(3). 
Hạn chế trong nghiên cứu này là chúng tôi 
không thực hiện đánh giá ion đồ và khí máu cho 
các bệnh nhân một cách thường quy, giúp bác sĩ 
điều trị có thể xử lý sớm. Việc xét nghiệm để 
đánh giá chỉ thực hiện khi bệnh nhân có dấu 
hiệu chỉ điểm trên lâm sàng. 
Vai trò gây tê ngoài màng cứng 
Gây mê toàn diện phối hợp gây tê ngoài 
màng cứng làm mất máu ít hơn và chất lượng 
giảm đau hậu phẫu tốt hơn. Sự kết hợp gây mê 
và gây tê NMC trong cắt bàng quang tận gốc làm 
giảm mất máu và giảm đau tốt nhưng không 
tăng biến chứng(4,7,8). 
Nghiên cứu của Ozyuvaci E và cs thực hiện 
trên 50 bệnh nhân cắt bàng quang tận gốc chia 2 
nhóm, một nhóm bệnh nhân gây mê toàn diện, 
một nhóm gây mê toàn diện phối hợp gây tê 
NMC, kết quả lượng máu mất trong mổ là 874 ± 
190,7 mL ở nhóm có phối hợp gây tê NMC và 
1248,3 ± 343,4 mL ở nhóm chỉ gây mê toàn diện. 
Số đơn vị máu được truyền trong nhóm gây mê 
đơn thuần là nhiều hơn. Giảm đau sau mổ tốt 
hơn ở nhóm có gây tê NMC. Không có sự khác 
biệt có ý nghĩa về các thông số huyết động, biến 
chứng sau mổ giữa hai nhóm(8). 
Hoặc theo nghiên cứu của Ladjevic N, gây 
mê toàn thân kết hợp với tê NMC làm giảm 
nguy cơ chảy máu 28,5% so với gây mê đơn 
thuần, và giảm đau sau mổ tốt hơn(4). 
Trong nghiên cứu này, các trường hợp có 
phối hợp gây tê NMC, tất cả bệnh nhân đều 
không phải sử dụng thêm thuốc opioids tĩnh 
mạch trong lúc mổ. 
Tỷ lệ truyền máu trong nghiên cứu khá cao 
với 21 trường hợp (chiếm 39,62%), chứng tỏ 
phẫu thuật rất khó khăn. 
Chúng tôi không tiến hành thống kê số 
lượng máu mất khi so sánh 2 phương pháp vô 
cảm gây mê toàn diện và gây mê toàn diện phối 
hợp gây tê ngoài màng cứng, vì lý do ảnh hưởng 
bởi yếu tố phẫu thuật khá nhiều như kỹ năng 
của bác sĩ phẫu thuật, mức độ xâm lấn và dính 
của bướu 
Phẫu thuật mổ mở cắt bàng quang tận gốc, 
kèm tạo hình bàng quang tân tạo bằng ruột là 
loại phẫu thuật gây đau nhiều và đau kéo dài. Vì 
vậy, với thuốc giảm đau qua đường tĩnh mạch, 
khó đảm bảo được chất lượng giảm đau tốt, đặc 
biệt khi bệnh nhân cần vận động sớm để tránh 
các tai biến do nằm lâu. Gây tê ngoài màng cứng 
có thể giúp bệnh nhân vận động sớm, với chất 
lượng giảm đau tốt. Các bệnh nhân được đặt 
catheter NMC trong nghiên cứu này, tất cả đều 
cho mức giảm đau rất tốt (bảng 4). Các biến 
chứng và tai biến của phương pháp gây tê NMC 
trong nghiên cứu hầu như không đáng kể, có thể 
do số trường hợp thực hiện còn ít. Ngoài ra, do 
điều kiện nghiên cứu, ngoài khía cạnh giảm đau 
hậu phẫu, chúng tôi chưa thống kê được những 
vấn đề liên quan giữa 2 kỹ thuật giảm đau sau 
mổ qua đường tĩnh mạch và đường ngoài màng 
cứng như vấn đề hiệu quả kinh tế, chăm sóc, tâm 
lý bệnh nhân 
Các tai biến, biến chứng liên quan đến 
phẫu thuật 
Theo Novotny V và cs nghiên cứu trên 516 
bệnh nhân phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc từ 
năm 1993 đến năm 2005: tỷ lệ tử vong chu phẫu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 317
khoảng 0,8%, 27,3 % bệnh nhân có ít nhất một 
biến chứng trong thời kỳ chu phẫu. Biến chứng 
thường gặp là biến chứng đoạn dưới hồi tràng 
(3,9%), thuyên tắc tĩnh mạch sâu (4,7%), và viêm 
ruột (1,9%). Biến chứng phẫu thuật bao gồm dò 
bạch huyết (8,1%), bục vết thương (8,9%), máu tụ 
khung chậu (0,8%). Viêm phúc mạc (0,8%). Tỷ lệ 
mổ lại 6,2%. Thời gian mổ, nằm viện, lượng máu 
truyền là giảm từ 1993 đến 2005.(6) 
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện 
vào thời điểm các bác sĩ phẫu thuật đã thực hiện 
thuần thục kỹ thuật mổ, chọn lựa bệnh với nhiều 
yếu tố cân nhắc, cũng như các kỹ thuật và 
phương tiện gây mê hồi sức ngày càng tốt hơn. 
Vì vậy, các tai biến ghi nhận trong mẫu nghiên 
cứu này ở mức thấp, và không có tai biến nặng 
cũng như tử vong trong thời điểm nghiên cứu. 
KẾT LUẬN 
Với khảo sát cắt ngang qua 53 trường hợp về 
các đặc điểm gây mê hồi sức, chứng tỏ rằng 
phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần kèm tạo 
hình bàng quang tân tạo bằng ruột là một phẫu 
thuật phức tạp về phương diện ngoại khoa cũng 
như tạo ra rất nhiều khó khăn cho công việc gây 
mê hồi sức. Sự tiến bộ trong kỹ thuật mổ, gây mê 
cũng như chất lượng chăm sóc hậu phẫu trong 
những năm gần đây giúp chúng tôi kiểm soát 
được các nguy cơ và tai biến, tất cả đã làm giảm 
biến chứng và thời gian nằm viện. Phương pháp 
gây mê toàn diện phối hợp gây tê ngoài màng 
cứng bước đầu áp dụng trong phẫu thuật này 
tạo ra kết quả vô cảm trong mổ cũng như chất 
lượng giảm đau sau mổ rất tốt, không làm tăng 
nguy cơ tai biến cho bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. De Nunzio C, Cicione A, Leonardo F, Rondoni M, Franco G, 
Cantiani A, Tubaro A, Leonardo C (2011). Extraperitoneal 
radical cystectomy and ureterocutaneostomy in octogenarians. 
Int Urol Nephrol. 43(3), pp:663-667. 
2. Fritsche HM, Burger M, Ganzer R, Otto W, Denzinger S, 
Wieland WF (2008). Impact of comorbidity on perioperative 
mortality after radical cystectomy. Aktuelle Urol. 39(3), pp: 
225-228. 
3. Gakis G, Stenzl A (2010). Ileal Neobladder and Its Variants. 
European urology supplements 9, pp: 745–753. 
4. Ladjevic N, Likic-Ladjevic I, Dzamic Z, Acimovic M, 
Dragicevic D, Durutovic O (2007). Combined general and 
epidural anaesthesia versus general anaesthesia for radical 
cystectomy. Acta Chir Iugosl. 54(4), pp: 89-91. 
5. Nathan N, Bhalla T(2011). Urology. In: Vacanti CA, Sikka PK. 
Essential Clinical Anesthesia, pp: 625 - 627. Cambridge 
University Press, New York. 
6. Novotny V, Hakenberg OW, Wiessner D, Heberling U, Litz 
RJ, Oehlschlaeger S, Wirth MP (2007). Perioperative 
complications of radical cystectomy in a contemporary series. 
Eur Urol. 51(2), pp: 397-401. 
7. Ono K, Shibata J, Tanaka T, Sakamoto A, Hasegawa J, Tanaka 
S, Kitoh T, Kawamata M (2009). Acute normovolemic 
hemodilution to reduce allogenic blood transfusion in patients 
undergoing radical cystectomy. Masui. 58(2): pp160-164. 
8. Ozyuvaci E, Altan A, Karadeniz T, Topsakal M, Besisik A, 
Yucel M (2005). General anesthesia versus epidural and 
general anesthesia in radical cystectomy. Urol Int. 74(1), pp: 
62-67. 
Ngày nhận bài báo: 29/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014