Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 226
GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG VỚI THUỐC TÊ VÀ THUỐC GIẢM ĐAU 
TRUNG ƯƠNG CHO PHẪU THUẬT VÙNG BỤNG DƯỚI 
Nguyễn Văn Chừng**, Trần Thị Ngọc Phượng*, Nguyễn Thị Thanh Ngọc*, Trần Đỗ Anh Vũ* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên 
thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phương pháp này làm giảm 
những biến chứng trong và sau mổ, giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các phẫu thuật nặng. 
Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau trong và sau mổ của phương pháp gây tê ngoài màng 
cứng với sự phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương cho phẫu thuật lớn vùng bụng dưới. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả. Từ tháng 10/2012 đến tháng 03/2013 tại Bệnh viện Bình Dân 
TPHCM, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 37 trường hợp ASA từ 1 đến 3, phẫu thuật lớn vùng bụng dưới với 
gây mê toàn diện kết hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu thuật. 
Kết quả: tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu: 56,1 ± 13,6 tuổi (25 – 85). Thời gian gây mê phẫu thuật 
217,1 ± 107,7 (80 - 480) phút. Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, rất 
ít sử dụng thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê, chỉ có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc giảm đau 
opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp duy trì trong mổ < 1 MAC. Không có tai biến nặng liên quan catheter NMC 
và tử vong chu phẫu trong nghiên cứu. 
Kết luận: Kết quả cho thấy phương pháp GTNMC phối hợp gây mê là kỹ thuật an toàn cho phẫu thuật vùng 
bụng dưới, với hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ tốt, không có những tai biến và biến chứng nặng. 
Từ khóa: gây tê ngoài màng cứng, phẫu thuật bụng dưới. 
ABSTRACT 
EPIDURAL WITH LOCAL ANESTHETICS AND OPIOIDS IN LOWER ABDOMINAL SURGERY 
Nguyen Van Chung, Tran Thi Ngoc Phuong, Nguyen Thi Thanh Ngoc, Tran Do Anh Vu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 226 - 231 
Background: Epidural for intra and postoperative pain relief has been widely used in the world for many 
decades. Previous studies have shown that this method may reduce complications, and decrease the mortality in 
severe cases. 
Objectives: The present study investigates the safety and the efficacy of epidural combined local anaesthetics 
and opioids in major lower abdominal surgery. 
Methods: descriptive, cross-sectional study. 37 ASA physical status 1 - 3 patients undergoing major surgery 
of the lower abdomen with a combined general anaesthesia and epidural postoperative analgesia were studied at 
Binh Dan hospital from 2012 October to 2013 March . 
Results: Average ages: 56.1 ± 13.6 years (25 – 85). Duration of surgery: 217.1 ± 107.7 (80 - 480) minutes. 
In most cases, the patients had no negative responses to the stimulus provided during the surgical procedure. 
Anesthesiologists rarely needed to administer intravenous opioids except a conductive dose. There were only five 
cases which more opioids were used during on operation. Anesthesia was maintained with less than 1 MAC of 
inhalation anesthetics. With regards to epidurals in this study, there were no severe complications or mortality. 
* Khoa phẫu thuật, Bệnh viện Bình Dân Tp. HCM. ** Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. Bs Trần Đỗ Anh Vũ ĐT: 0903181976 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 227
Conclusions: The results illustrate that a combined general - epidural anesthesia technique is safe for lower 
abdominal surgery with both efficient anesthesia and satisfactory pain relief. There were no serious complications 
involved in this process. 
Keyword: epidural, lower abdominal surgery. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm 
đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên 
thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của 
nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phương 
pháp này làm giảm những biến chứng trong và 
sau mổ, cải thiện tình trạng phục hồi chức năng 
sau mổ và giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các 
phẫu thuật nặng. 
Phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung 
ương (nhóm á phiện) dùng trong GTNMC bằng 
cách truyền liên tục cũng đã cho thấy những ưu 
điểm, thuận lợi rõ rệt như cải thiện chất lượng 
giảm đau, giảm bớt liều lượng sử dụng của cả 
hai nhóm thuốc, giảm tai biến ngộ độc thuốc, 
duy trì nồng độ thuốc ổn định, giảm tải công 
việc cho người làm công tác hồi sức sau mổ, 
tránh được tác dụng ức chế giao cảm ngắt quãng 
do chích từng liều(1, 7). 
Đối với các phẫu thuật lớn vùng bụng dưới, 
thời gian mổ kéo dài, trên các đối tượng có các 
bệnh lý tim mạch, hô hấp kèm theo với nhiều 
nguy cơ trong và sau phẫu thuật, ngoài các vấn 
đề về ngoại khoa, đau được ví như một dấu hiệu 
sinh tồn cần phải được quan tâm đúng mức. 
Những trường hợp như vậy, việc đặt một 
catheter vào khoang ngoài màng cứng (NMC) 
vừa là phương pháp vô cảm và giảm đau trong 
mổ, vừa giảm đau sau mổ liên tục rất tiện lợi. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau 
trong và sau mổ của phương pháp gây tê ngoài 
màng cứng với sự phối hợp thuốc tê và thuốc 
giảm đau trung ương cho phẫu thuật lớn vùng 
bụng dưới. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật lớn 
vùng bụng dưới tại Bệnh viện Bình Dân 
TP.HCM. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang. 
Tiêu chuẩn nhận bệnh 
- Bệnh nhân thuộc nhóm ASA 1 – 3, không 
có chống chỉ định GTNMC. 
- Bệnh nhân đồng ý hợp tác với thầy thuốc 
để tiến hành GTNMC. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Bệnh nhân đang nhiễm trùng toàn thân, 
đang ở trong tình trạng sốc hay thiếu khối lượng 
tuần hoàn. 
- Không thực hiện GTNMC được. 
Phương thức tiến hành 
Thăm khám, giải thích và chuẩn bị bệnh 
nhân (BN) như một cuộc gây mê bình thường. 
Kỹ thuật GTNMC phối hợp gây mê toàn 
diện: 
+ GTNMC TL 3-4 hoặc TL 2-3, luồn catheter 
vào khoang NMC với độ sâu 3 – 5 cm. Bơm liều 
test bằng hỗn hợp 3ml Lidocain 1,5% và 
epinephrine 1/200.000. 
+ Sau khi xác định catheter đúng vào khoang 
NMC, tiến hành gây mê toàn diện có đặt ống nội 
khí quản (NKQ) cho bệnh nhân. 
+ Truyền liên tục trong mổ hỗn hợp: 
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận 
tốc 4-8ml/giờ. 
Sau mổ, vẫn tiếp tục truyền liên tục hỗn hợp 
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận 
tốc 4-8ml/giờ. 
Theo dõi dấu hiệu sinh tồn của BN trước, 
trong và sau khi thực hiện thủ thuật, xử lý 
những rối loạn khi cần, bao gồm: 
+ Tại phòng mổ: sau khi gây tê, theo dõi: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 228
mạch, HA, nhịp thở, tri giác. 
+ Trong mổ: theo dõi các chỉ số M, HA, các 
đáp ứng về độ mê với các kích thích phẫu thuật 
khác nhau. 
+ Sau mổ: tiếp tục duy trì giảm đau qua 
catheter NMC bằng bơm điện liên tục. Ghi nhận 
và đánh giá các yếu tố cần nghiên cứu: hiệu quả 
giảm đau, các tai biến và biến chứng. Khi BN về 
khoa ngoại, thăm khám BN vào những giờ nhất 
định trong ngày theo phác đồ nghiên cứu, và 
thăm khám ngay lập tức các vấn đề liên quan 
đến catheter NMC để đưa ra hướng xử trí. 
Thu thập và xử lý số liệu 
Các dữ kiện được đưa vào phân tích là: 
- Tuổi, giới tính. 
- Phân loại nguy cơ gây mê phẫu thuật ASA. 
- Bệnh kèm theo trước mổ: thiếu máu cơ tim, 
cao huyết áp, tiền căn nhồi máu cơ tim, suy tim, 
bệnh van tim, lao phổi, hen phế quản, bệnh phổi 
khác, suy thận, suy gan, đái tháo đường, có bệnh 
ung thư, tai biến mạch máu não 
- Biến đổi huyết động trong mổ: mạch, huyết 
áp, lượng nước tiểu. 
- Mức độ phong bế vận động, hiệu quả giảm 
đau trong và sau mổ. 
- Các thuốc hồi sức được sử dụng trong mổ. 
- Thời gian lưu catheter, thời gian nằm theo 
dõi điều trị tại hồi sức. 
- Những khó khăn, thuận lợi và các tai biến, 
biến chứng trong và sau mổ liên quan đến gây 
mê – hồi sức. 
Xử lý các số liệu 
Phần mềm thống kê SPSS 16.0 for Windows. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 10/2012 đến tháng 03/2013 tại Bệnh 
Viện Bình Dân TPHCM, chúng tôi đã tiến hành 
thực hiện và theo dõi 37 trường hợp phẫu thuật 
lớn vùng bụng dưới với gây mê toàn diện kết 
hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu 
thuật. Một số kết quả thu được như sau: 
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân 
Đặc điểm chung Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 
Tuổi 56,1 ± 13,6 25 85 
Chiều cao (cm) 161,6 ± 9,4 150 180 
Cân nặng (kg) 55,9 ± 10,1 36 77 
ASA 
Có 4 trường hợp (8,5%) loại 1, 28 (59,6%) loại 
2, và 5 (10,6%) loại 3. 
Bảng 2: Loại phẫu thuật 
Loại phẫu thuật Trường hợp 
(n = 37) 
Bướu bàng quang 12 
K tiền liệt tuyến 2 
Dò bàng quang âm đạo 1 
Bàng quang thần kinh 1 
K trực tràng 19 
K ống hậu môn 2 
Thời gian phẫu thuật 
217,1 ± 107,7 (80 - 480) phút. 
Bệnh kèm theo 
Hầu hết các bệnh nhân đều có ít nhất một 
bệnh lý nội khoa kèm theo, nổi bật là tình trạng 
tăng huyết áp, với 10 trường hợp, chiếm 27% 
bệnh nhân. Có 6 trường hợp bệnh tim thiếu máu 
cục bộ, 2 trường hợp hen phế quản. 
Bảng 3: Thay đổi M và HA của bệnh nhân tại các 
thời điểm quan trọng 
Thay đổi M, HA Mạch HA trung bình 
Trước gây tê (tỉnh táo) 82,7 ± 9,6 105,3 ± 9,4 
Trước rạch da 65,2 ± 11,4 * 69,7 ± 6,2 * 
Trong mổ 71,9 ± 9,3 * 75,3 ± 8,7 * 
Sau mổ (vừa hồi tỉnh) 89,7 ± 10,8 110,4± 8,5 
(*): khác biệt có ý nghĩa thống kê, P < 0,05. 
Chúng tôi lấy các thông số về M và HA trước 
khi gây tê làm mức cơ bản của BN. Tại thời điểm 
trước rạch da và trong phẫu thuật, sự thay đổi M 
và HA so với mức cơ bản có ý nghĩa về mặt 
thống kê, nhưng về phương diện lâm sàng thì 
BN chấp nhận được mức đáp ứng thay đổi 
huyết động này. 
Tai biến và biến chứng 
Không có tai biến nặng ghi nhận trong 
nghiên cứu này. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 229
nhận trường hợp nào bị tụt HA trầm trọng liên 
quan catheter NMC, cũng không có trường hợp 
nào bị suy hô hấp phải điều trị ở giai đoạn sau 
mổ. 
Bảng 5: Các tai biến, biến chứng khác 
Biến chứng Số trường hợp Tỷ lệ % 
Buồn nôn - nôn 9 24,3% 
Đau đầu 5 13,5% 
Đau lưng 1 2,7% 
Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau 
phẫu thuật 
Giảm đau trong mổ 
Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu 
cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, rất ít sử dụng 
thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê, 
chỉ có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc 
giảm đau opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp 
duy trì trong mổ < 1 MAC. 
Giảm đau sau mổ 
Thang điểm đau (VAS) 
Bảng 6: Thang điểm đau VAS 
VAS Giờ 0 
(tỉnh táo) 
Giờ 4 Giờ 8 Giờ 16 Giờ 24 Giờ 36 - 72 
0-1 0 0 0 1 1 1 
>1-3 5 15 19 20 25 28 
>3-5 27 21 17 15 10 3 
>5-8 5 1 1 1 1 0 
>8-10 0 0 0 0 0 0 
Có 5 trường hợp rút catheter sớm sau 1 ngày 
vì lý do bệnh nhân sốt cao (2 trường hợp), và do 
catheter bị sút (1 trường hợp), tắc nghẽn (2 
trường hợp). 
Phong bế vận động 
Chỉ có 1 trường hợp bị liệt hoàn toàn 2 chi 
dưới vào giờ thứ 5 sau truyền thuốc qua 
catheter NMC, sau khi giảm liều thì phục hồi 
vận động. 5 trường hợp yếu nhẹ ở 1 hoặc 2 chi 
dưới. Các trường hợp còn lại đa số chỉ có cảm 
giác dị cảm nhẹ. 
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu 
nghiên cứu 56,1 ± 13,6 tuổi, thấp nhất là 25 tuổi, 
cao nhất là 85 tuổi. 
Tuổi trong dân số mẫu nghiêng về phía 
người cao tuổi, phù hợp với phân bố dịch tể của 
loại bệnh cần phẫu thuật, gồm 12 trường hợp 
(32,4%) bướu bàng quang và 19 trường hợp 
(51,4%) ung thư trực tràng. Điều này cũng góp 
phần gây khó khăn cho nghiên cứu vì ở độ tuổi 
càng cao, việc chuyển hóa và đào thải thuốc ít 
nhiều bị ảnh hưởng, dễ dẫn đến tình trạng tích 
lũy thuốc và gây ngộ độc.(1) 
Vai trò gây tê ngoài màng cứng giảm đau 
trong mổ 
Theo Robert J (2003), gây tê NMC phối hợp 
gây mê và giảm đau hậu phẫu làm giảm biến cố 
tim mạch chu phẫu 30%, giảm nhiễm trùng phổi 
40%, tắc mạch phổi 50%, suy thận cấp 30% so với 
gây mê toàn thân và giảm đau truyền thống.(8) 
Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, vai 
trò của phối hợp GTNMC hoàn toàn có thể thay 
thế nhóm opioids giảm đau trong mổ, chúng tôi 
sử dụng opioids (sufentanil hoặc fentanyl) trong 
hầu hết các trường hợp vào lúc khởi mê để đặt 
NKQ. Tránh được sử dụng opioids liều cao 
trong phẫu thuật rất có lợi, đặc biệt ở người già 
và những BN có tình trạng thể chất kém (ASA 3), 
giúp tỉnh mê sớm và tránh những biến cố do 
dùng opioids quá nhiều được cộng dồn vào khi 
cho giảm đau sau mổ. 
Điều này được chứng minh khi thời gian rút 
NKQ sớm, BN tỉnh táo sớm. 
Để tránh tình trạng tụt HA, một tác dụng 
thường đi kèm với phối hợp gây tê vùng và gây 
mê toàn diện, trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ 
thực hiện liều bolus khi M và HA đã ổn định sau 
khởi mê, điều này giúp chúng tôi phòng ngừa 
được tác dụng tụt HA khi phối hợp giữa 
GTNMC và gây mê toàn diện. 
Các thuốc sử dụng trong mổ như thuốc mê 
bốc hơi cũng có xu hướng giảm, chúng tôi sử 
dụng gây mê với nồng độ thuốc mê < 1 MAC, 
và không có trường hợp nào BN bị thức tỉnh 
trong mổ. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 230
Đánh giá mức độ an toàn của giảm đau hậu 
phẫu qua catheter NMC với các tai biến, 
biến chứng trong nghiên cứu 
Nhiều tác dụng phụ liên quan đến thuốc 
(opioids và thuốc tê vùng) có thể xảy ra với việc 
dùng giảm đau NMC ở hậu phẫu, nhưng trước 
khi quy nguyên nhân cho giảm đau NMC, điều 
quan trọng đầu tiên là phải xem xét những 
nguyên nhân khác, như giảm thể tích, chảy máu, 
cung lượng tim thấp dẫn đến tụt huyết áp, tai 
biến mạch máu não, phù phổi; và nhiễm trùng 
huyết dẫn đến suy hô hấp(1, 5). 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không gặp 
phải các tai biến nặng liên quan đến catheter như 
tử vong hoặc các tai biến liên quan với tổn 
thương thần kinh trung ương không hồi phục. 
Một số tác dụng phụ khác được chúng tôi 
ghi nhận như sau 
Tụt huyết áp 
Thuốc tê vùng dùng trong chế độ trị liệu 
giảm đau NMC có thể phong bế những sợi giao 
cảm và góp phần gây tụt huyết áp sau mổ. Tỷ lệ 
tụt huyết áp hậu phẫu với giảm đau NMC sau 
mổ có thể cao xấp xỉ 7%, trung bình gần 0,7 - 3%. 
Những chiến lược điều trị tụt huyết áp không 
nguy hiểm gây ra bởi giảm đau NMC bao gồm 
việc giảm tổng liều thuốc tê vùng sử dụng (bằng 
việc giảm tốc độ hay nồng độ), chỉ truyền opioid 
vào khoang NMC và điều trị những nguyên 
nhân căn bản của tụt huyết áp(2,3,5). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường 
hợp tụt HA có ý nghĩa đều xảy ra trong lúc phẫu 
thuật. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do tình trạng 
giảm thể tích do mất máu. 
Trong giai đoạn hậu phẫu, chúng tôi không 
ghi nhận trường hợp nào tụt HA liên quan đến 
việc truyền thuốc tê và opioid qua catheter 
khoang ngoài màng cứng. 
Phong bế vận động 
Sử dụng thuốc tê vùng cho tác dụng giảm 
đau NMC ở hậu phẫu cũng góp phần phong bế 
vận động chi dưới xấp xỉ 2 - 3% BN. Nồng độ 
thấp hơn của thuốc gây tê vùng và catheter - 
đường rạch da - vị trí phù hợp của catheter 
NMC cho quá trình phẫu thuật bụng hay ngực 
có thể làm giảm tỷ lệ phong bế vận động. Mặc 
dù trong phần lớn các trường hợp sự phong bế 
vận động được giải quyết sau khi ngưng truyền 
vào khoang NMC trong vòng gần 2 giờ, nếu sự 
phong bế vận động tiếp tục tồn tại hay tăng lên 
cần phải được đánh giá nhanh, các nguyên nhân 
như khối máu tụ ở tủy sống, áp-xe tủy sống, sự 
di dời của catheter vào trong tủy sống, phải được 
quan tâm xem xét như một phần của chẩn đoán 
phân biệt(5, 6). 
Trong nghiên cứu này, chỉ có 1 trường hợp bị 
liệt đột ngột sau khoảng 5 giờ truyền thuốc tê. 
Chúng tôi xử trí bằng cách ngưng truyền thuốc 
và theo dõi, vận động của bệnh nhân hồi phục 
trong khoảng 2 giờ sau đó. 
Vì vậy với nghiên cứu này, chúng tôi nhận 
thấy nồng độ thuốc tê, opioids và tốc độ truyền 
như vậy là phù hợp để giảm đau đủ và ít phong 
bế vận động nhất. 
Buồn nôn và nôn 
Buồn nôn và nôn kết hợp với việc chích một 
liều đơn opioids vào trục thần kinh xảy ra xấp xỉ 
20 - 50% BN, và tỷ lệ tích lũy ở những BN nhận 
sự điều trị truyền opioids liên tục có thể cao từ 
45 - 80%. Những dữ liệu lâm sàng và thử nghiệm 
cho thấy rằng tỷ lệ buồn nôn và nôn liên quan 
đến opioid chích vào trục thần kinh thì tùy thuộc 
vào liều. Buồn nôn và nôn từ việc chích opioid 
vào trục thần kinh có thể liên quan đến sự di 
chuyển về phía đầu của opioid(4, 5). 
Nghiên cứu của chúng tôi có 9 trường hợp 
(24,3%) bệnh nhân bị buồn nôn và nôn, cũng 
phù hợp với tỷ lệ chung. 
Suy hô hấp 
Tỷ lệ suy hô hấp với opioids chích vào trục 
thần kinh thì tùy thuộc vào liều và khoảng từ 
0,1 - 0,9%. 
Những yếu tố nguy cơ của suy hô hấp với 
opioids chích vào trục thần kinh bao gồm tăng 
liều, tuổi cao, dùng đồng thời với opioids toàn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 231
thân hay thuốc an thần và có thể do phẫu 
thuật mở rộng hay kéo dài, và phẫu thuật lồng 
ngực(1,4,5). 
Trong nghiên cứu này, với phác đồ thực 
hiện, chúng tôi không ghi nhận trường hợp 
nào bị suy hô hấp cần phải can thiệp. Vì vậy, 
chúng tôi cho rằng có thể thực hiện an toàn 
việc truyền opioids liên tục qua catheter NMC 
tại khoa ngoại. 
KẾT LUẬN 
Kết quả cho thấy phương pháp gây tê ngoài 
màng cứng phối hợp gây mê là kỹ thuật an toàn, 
hiệu quả và không có những tai biến biến chứng 
quan trọng. 
Với phác đồ sử dụng trong nghiên cứu, đặt 
catheter NMC đoạn TL 2 - 3 hoặc TL 3 - 4, truyền 
liên tục hỗn hợp Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 4 
mcg/mL trong và sau mổ, tốc độ 4 – 8 mL/giờ. 
Phác đồ này đã đáp ứng được nhu cầu giảm đau 
trong và sau phẫu thuật với tính hiệu quả và an 
toàn cao cho các trường hợp phẫu thuật lớn 
vùng bụng dưới. 
Do đó, đề tài có thể được ứng dụng rộng rãi 
hơn cho các phẫu thuật lớn vùng bụng trên và 
vùng ngực. Tuy nhiên, với những nguy cơ của 
thủ thuật và thuốc sử dụng, chúng tôi khuyến 
cáo khi áp dụng phương pháp này cần phải 
chuẩn bị đầy đủ nhân lực, trang thiết bị, nhất là 
phải có quy trình và phác đồ thống nhất với các 
bộ phận liên quan. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Brown DL (2009). Spinal, Epidural, and Caudal Anesthesia. 
In: Ronald D. Miller. Miller’s Anesthesia, 7th edition, 
Churchill Livingstone, pp 1611 – 1636. 
2. Doi K, Yamanaka M, Shono A, Fukuda N, Saito Y (2007). 
Preoperative epidural fentanyl reduces postoperative pain 
after upper abdominal surgery. Br J Anaesth, 98(3): 380-384. 
3. Duncan F (2011). Prospective observational study of 
postoperative epidural analgesia for major abdominal surgery. 
J Clin Nurs, 20(13-14): 1870 – 1879. 
4. Gudaityte J, Germaniene O, Juknyte A, Ubartiene G (2010). 
The quality of postoperative epidural analgesia after upper 
and lower abdominal surgery: A survey of postoperative 
records: 14AP11-3. EUR J ANAESTH, Volume 27 - Issue 47: 
pp 220. 
5. Hurley RW and Wu CL (2009). Acute Postoperative Pain. In: 
Ronald D. Miller. Miller’s Anesthesia, 7th edition, Churchill 
Livingstone: pp.2757 – 2776. 
6. Lê Văn Chung, Nguyễn Văn Chừng (2008). Gây tê ngoài 
màng cứng và gây tê tủy sống phối hợp trong phẫu thuật 
chỉnh hình chi dưới. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 12 (1): 78 - 83. 
7. Nguyễn Văn Chừng (2002). GMHS trong phẫu thuật vùng 
hậu môn trực tràng. Trong: Lê Quang Nghĩa. Bệnh trĩ, NXB Y 
Học TP.HCM: 167-192. 
8. Robert J et al (2003). The role of Epidural Anesthesia and 
Analgesia in surgical practice. Annals Surgery, 238(5): 663-673. 
9. Võ Thị Nhật Khuyên, Nguyễn Thị Ngọc Đào, Phan Tôn Ngọc 
Vũ, Nguyễn Văn Chừng (2010). Máu tụ ngoài màng cứng sau 
gây tê ngoài màng cứng. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 14 (1): 
278 - 282. 
Ngày nhận bài báo: 29/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014