Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 424
GIÁ TRỊ SINH THIẾT LÕI BẰNG KIM JAMSHIDI  
TRONG CHẨN ĐOÁN BƯỚU MÔ MỀM TỨ CHI 
Nguyễn Anh Khoa*, Đỗ Phước Hùng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu – Mục tiêu: Bướu mô mềm tứ chi là bệnh lý phức tạp. Sinh thiết (ST) bướu được coi như chìa 
khóa để chẩn đoán và điều trị. ST mổ là lựa chọn đầu tiên, nhưng thường đi kèm với tỷ lệ biến chứng đáng kể. 
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được ST lõi có các ưu điểm như độ chính xác cao, ít biến chứng. Mục tiêu: (i) 
Xác định khả năng lấy được lõi mô bướu; (ii) xác định sự phù hợp kết quả giải phẫu bệnh (GPB) của ST lõi với 
chẩn đoán cuối cùng; (iii) xác định tỉ lệ các biến chứng gần. 
Đối tượng và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang. Từ 07/2012 tới 04/2013, 50 
trường hợp BN bướu mô mềm tứ chi được ST lõi ngay trước khi họ được ST mổ hay mổ chính thức. Mỗi kết quả 
GPB của ST lõi được so sánh với chẩn đoán cuối cùng. Khảo sát độ chính xác, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên 
đoán dương, giá trị tiên đoán âm. 
Kết quả: Độ chính xác chung là 84%. Độ nhạy là 85,2%, độ đặc hiệu là 100%. giá trị tiên đoán dương và 
giá trị tiên đoán âm là 100% và 85,2%. Cần không tới 2 lần (1,2 lần) đâm kim để có được một lõi mô. Không có 
biến chứng nào trong 50 trường hợp. 
Kết luận: ST lõi có độ chính xác cao, an toàn, thao tác tiện lợi và có tiềm năng thay thế được ST mổ.  
Từ khóa: sinh thiết lõi, bướu mô mềm, độ chính xác 
ABSTRACT 
VALUE OF JAMSHIDI CORE NEEDLE BIOPSY IN THE DIAGNOSIS 
 OF EXTREMITY SOFT TISSUE TUMORS 
Nguyen Anh Khoa, Do Phuoc Hung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 424 ‐ 429 
Background  ‐ Objectives: Soft  tissue  tumors of extremity  (STToE) are rare and complicated. Biopsy  is 
considered the key for diagnosis and treatment program. Open biopsy has been regarded as the biopsy of choice by 
some, but it has a high rate of wound complications. Reported advantages of core needle biopsy (CNB) include the 
high  accuracy  and minimal  complication.  The  aims  of  the  study were  (i)  to  assess  the  utility  of  obtaining 
specimens from Jamshidi needle; (ii) to assess the pathologic correlation between CNB and open biopsy result; and 
(iii) to assess CNB complications. 
Method: This was a cross‐sectional study of case notes and pathology records. Between July 2012 and April 
2013, 50  Jamshidi CNB were performed without  imaging guidance before  the  incision biopsies  or  the  en‐bloc 
excision  performed.  For  each  CNB  pathologic  result  we  compared  to  the  final  diagnosis.  The  accuracy  of 
diagnostic  biopsies was  calculated,  as were  the  sensitivity,  specificity,  positive  predictive  value  and  negative 
predictive value.  
Results: The overall accuracy of CNB was 84%. The sensitivity was 85.2%, with 100% specificity. The 
positive  predictive  value  and  negative  predictive  value  rates  for CNB was  100%  and  85.2%. The  utility  of 
obtaining one specimen was 1.2 needle puncture. None of 50 cases had any complication. 
Conclusion: Core biopsy has a high degree of accuracy in the diagnosis of STToE. CNB is safe, convenient 
* Bộ Môn Chấn Thương Chỉnh Hình – Phục Hồi Chức Năng Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc. BSNT. Nguyễn Anh Khoa  ĐT: 0919406333  Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  425
and potentially can be the substitutive method for open biopsy. 
Keywords: core needle biopsy, soft tissue tumor, accuracy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bướu mô mềm  tứ  chi  là bệnh  lý phức  tạp, 
ảnh  hưởng  chất  lượng  cuộc  sống  người  bệnh. 
Quá  trình điều  trị cần phải có sự phối hợp của 
lâm sàng, hình ảnh học và GPB. Để chẩn đoán 
chính  xác,  xác  định hướng  điều  trị,  tiên  lượng 
ban đầu thì GPB chính là tiêu chuẩn vàng. Sinh 
thiết (ST) mổ đã được tiến hành thường quy với 
ưu điểm: quan sát trực tiếp mô bướu về mặt đại 
thể,  lấy  được mẫu mô  theo  ý muốn  nên  khả 
năng chẩn đoán chính xác cao. Tuy nhiên, bệnh 
nhân  (BN) phải  trải qua một  cuộc phẫu  thuật, 
với  các  biến  chứng  như  gieo  rắc  tế  bào,  chảy 
máu, tụ máu sau mổ(9,12). Nhằm hạn chế những 
nhược  điểm  này,  ST  bằng  kim  qua  da  ra  đời. 
FNA  chỉ  lấy  được  tế  bào  và dịch nên  khó  đại 
diện  cho  tổn  thương bướu mô mềm. ST  lõi  có 
thể lấy đủ lõi mô đại diện cho bướu sẽ giúp ích 
cho việc chẩn  đoán mô học của bướu. Phương 
pháp này có độ chính xác  là 69%  tới 99%, biến 
chứng  thấp  (0%  tới  6%).  Theo  Oetgen,  ST  lõi 
bướu hệ cơ xương với độ chính xác trung bình là 
93% cho bướu ác, riêng bướu mô mềm là 100%, 
chỉ có 1/119 BN nhiễm  trùng nhẹ vết  thương(8). 
Theo Auyeung năm 2008, 33/34 BN được ST lõi 
bướu mô mềm  ngay  tại  phòng  khám  cho  kết 
quả chính xác(2). Phương pháp này còn mới mẻ 
với  ngành  chấn  thương  chỉnh  hình  (CTCH), 
chưa  được  thực hiện  rộng  rãi  ở Việt Nam vì e 
ngại  khả  năng  lấy  lõi mô  không  đại  diện  cho 
chẩn đoán. Hiện tại chưa có nghiên cứu về ST lõi 
bướu mô mềm  tứ  chi  tại Việt Nam. Mục  tiêu 
nghiên cứu: 
Xác  định  giá  trị  chẩn  đoán  các  bướu  mô 
mềm và  tổn  thương dạng bướu mô mềm  ở  tứ 
chi của phương pháp ST lõi: 
1.  Xác định khả năng lấy được mẫu mô bướu. 
2.  Xác định sự phù hợp kết quả GPB của ST 
lõi với kết quả GPB cuối cùng.  
3.  Xác định tỉ lệ các biến chứng gần. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
BN  tại  Khoa  CTCH  bệnh  viện  Chợ  Rẫy 
được  chẩn  đoán  bướu  mô  mềm  hoặc  tổn 
thương dạng bướu mô mềm,  có  chỉ  định mổ 
ST hoặc mổ chính thức.  
Tiêu chuẩn loại trừ 
BN  có  chống  chỉ  định  phẫu  thuật;  khối 
bướu nhỏ hơn 4 cm, nằm trong khoang hẹp có 
nhiều cấu thần kinh‐mạch máu; bướu nằm bao 
xung quanh thần kinh, mạch máu hoặc có thần 
kinh, mạch máu, gân nghi ngờ đi qua phần dự 
kiến đâm kim ST và bướu có chẩn đoán trước 
mổ là bướu mạch máu, bướu dạng nang, bướu 
hoạt dịch. 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến  cứu mô  tả  cắt  ngang,  với  cỡ mẫu dự 
kiến là 60. 
Hình 1: Bộ kim ST Jamshidi 
Ghi nhận các đặc tính lâm sàng phối hợp với 
hình ảnh học của  tổn  thương để dự định  trước 
vị  trí và đường ST. Tối  thiểu có chẩn đoán của 
siêu âm bướu mô mềm. Tốt nhất có kết quả hình 
ảnh cộng hưởng từ và cả siêu âm. Trong trường 
hợp BN có nhiều  tổn  thương, chọn  tổn  thương 
có khả năng cho chẩn đoán cao nhất và nguy cơ 
biến chứng thấp nhất để ST. 
Cắt lòng máng 
Kim sinh thiết 
Que thông 
Nòng kim 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 426
Hình 2: Lõi mô bướu 
Đâm kim tối  thiểu 3  lần  trên đường mổ dự 
kiến của phẫu thuật viên chính, lấy ít nhất 3 lõi 
mô bướu. Mẫu nghiên cứu bao gồm các  lõi mô 
mềm  từ  kim  và mẫu mô  bướu  đối  chứng  của 
mỗi BN được mã hóa, gửi đến bộ môn GPB Đại 
Học Y Dược  TP HCM.  Thời  gian  lấy mẫu:  từ 
07/2012 đến 04/2013; Thời gian phân tích số liệu: 
05/2013; Thời gian hoàn  thành:  từ  05/2013  đến 
06/2013.  
Ghi  nhận:  Số  lần  đâm  kim,  Số  lõi mô  lấy 
được. Khả năng  lấy được  lõi mô bướu:  là  tỷ  lệ 
được  tính bằng  tổng số  lõi mô  trên  tổng số  lần 
đâm kim và tỷ lệ trường hợp lõi mô bướu cho ra 
chẩn  đoán  chuyên  biệt.  Trong  đó,  chẩn  đoán 
chuyên  biệt  là  những  trường  hợp  ST  lõi  cho 
chẩn đoán cụ thể, không phải  là mô phản ứng, 
thoái hóa, hoại tử. Chẩn đoán cuối cùng: là chẩn 
đoán dựa vào kết quả ST trọn khối (nếu có) hoặc 
ST mổ có phối hợp, đối chiếu với lâm sàng‐ hình 
ảnh học. Trong những  trường hợp kết  quả  ST 
mổ không phù hợp với lâm sàng‐ hình ảnh học, 
chẩn đoán cuối cùng dựa vào ST mổ lần 2.  
Kết quả ST  lõi được so sánh với chẩn đoán 
cuối  cùng, phân  thành  3 nhóm  sau: Chính xác: 
kết quả ST lõi phù hợp với chẩn đoán cuối cùng; 
Không chính xác: kết quả ST  lõi không đúng với 
chẩn  đoán  cuối  cùng;  Không  chẩn  đoán:  ST  lõi 
không cho chẩn đoán chuyên biệt nào, gổm các 
trường hợp không lấy được mẫu hoặc mẫu mô 
không đúng mục tiêu, chỉ là mô phản ứng, thoái 
hóa, hoại tử. Điều quan trọng nhất của ST bướu 
mô mềm là xác định lành – ác vì quyết định sự 
sống  còn  của  chi.  Do  vậy  chúng  tôi  qui  ước 
những  trường  hợp  “ác  tính”  là  “ác”,  những 
trường  hợp  còn  lại  là  “không  ác”  nhằm  tính 
được  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu,  giá  trị  tiên  đoán 
dương và tiên đoán âm.  
Ghi nhận các biến chứng gần. 
KẾT QUẢ 
Số trường hợp thực hiện ST là 50. Tuổi trung 
bình là 45,5 tuổi, nhỏ nhất 16 tuổi  ‐  lớn nhất 79 
tuổi. Tỷ lệ Nam và Nữ bằng nhau. 
Vị trí thực hiện ST nhiều nhất là vùng đùi, 20 
trường  hợp,  chiếm  40%.  Loại  bướu  được  thực 
hiện ST nhiều nhất là bướu thần kinh, 12 trường 
hợp (chiếm 24%).  
Số  lõi  mô  trung  bình  lấy  ở  mỗi  BN  là 
177/50 = 3,54  lõi. Khả năng mỗi  lần  đâm kim 
để  lấy  được  lõi  mô  mong  muốn  là 
(177/213)*100% = 83,09%. Nói cách khác, để lấy 
được một  lõi mô mong muốn  cần  đâm  kim 
(213/177)  =  1.2,  tức  là  không  quá  2  lần.  Khả 
năng  lấy  được  mô  bướu  cho  chẩn  đoán  là 
(46/50)*100% = 92%, khả năng không lấy được 
mô bướu cho chẩn đoán là (4/50)*100% = 8%. 
Độ chính xác đạt 84%. Độ nhạy thu được là 
85,2% với  độ  đặc hiệu  100%. Giá  trị  tiên  đoán 
dương là 100%, giá trị tiên đoán âm 85.2%. 
Không  có  biến  chứng  khi  thực  hiện 
nghiên cứu. 
BÀN LUẬN 
Khả năng lấy được lõi mô bướu bằng kim 
46/50  trường  hợp  (92%)  cho  chẩn  đoán 
chuyên biệt, chỉ có 4/50  trường hợp không cho 
chẩn  đoán  chuyên  biệt. Với  92%  lõi mô  bướu 
cho chẩn đoán, cho phép kết  luận khả năng ST 
lõi  lấy  được  lõi mô bướu  tốt. Khả năng  lấy  lõi 
mô bướu của kim chịu sự ảnh hưởng của nhiều 
yếu  tố,  bao  gồm  kỹ  thuật  ST  và  bản  chất mô 
bướu. 
Những  yếu  tố  kỹ  thuật  ảnh  hưởng  tới  khả 
năng lấy được lõi mô bướu bằng kim 
Đâm kim đa hướng là nguyên tắc cơ bản của 
kỹ  thuật. Trong mỗi  trường hợp ST,  chúng  tôi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  427
giữ nguyên tắc quan trọng trong kỹ thuật ST lõi 
là đâm kim đa hướng, tối thiểu là 3 hướng, lấy ít 
nhất 3 lõi mô. Tổng số lõi mô là 177 lõi với số lần 
đâm kim là 213 lần. Hiệu suất mỗi lần đâm kim 
để lấy được lõi mô mong muốn là 83.09%, tức là 
chỉ phải đâm kim không quá 2  lần để  lấy được 
một  lõi mô bướu. Pohlig nhấn mạnh  tầm quan 
trọng của việc lấy mẫu mô từ thao tác đâm kim 
đa hướng(10).  
Tổng  thể  tích  của mẫu  ST  lấy  được  càng 
lớn  thì cơ hội  lấy  được mẫu mô  đại diện  cho 
bướu càng cao. Vì vậy chúng  tôi  lấy  ít nhất 3 
lõi mô. Chúng tôi còn chú ý tới chất lượng lõi 
mô bướu. Chất  lượng  của  lõi mô  bướu  được 
xem là đạt khi có thể quan sát được tương đối 
rõ hình dáng, màu sắc, mật độ lõi mô nhằm có 
phân  biệt  với mô  bình  thường  hay mô  phản 
ứng. Khả năng lấy được lõi mô đạt chất lượng 
chắc chắn sẽ được nâng cao nếu có sự tham gia 
của bác sĩ GPB lý có kinh nghiệm. Điều này là 
một  trong những yếu  điểm  trong nghiên  cứu 
của chúng tôi, khi mà nhận định chủ quan của 
người  thực hiện chỉ  được  sự hỗ  trợ của phẫu 
thuật viên khoa CTCH. Jelinek thực hiện ST lõi 
với sự có mặt của bác sĩ GPB, có thể xem như 
là tương đương với “cắt lạnh”(4).  
Đâm kim mù sẽ trở nên sáng nếu có hướng 
dẫn  của phương  tiện  chẩn  đoán hình  ảnh. Vị 
trí ST  được  ước  định  trước mổ dựa vào hình 
ảnh  học  nên  kết  quả  không  tối  ưu  như  các 
nghiên cứu khác. Theo Mitsuyoshi, nếu ST kim 
được  thực  hiện  dưới  hướng  dẫn  của  CT‐
Scanner  thì  khả  năng  không  lấy  đủ mô  thấp 
hơn nhiều  so với khi  được  thực hiện  ST mù, 
6,8% so với 14,2%(7).  
Loại kim ST và sự  thành  thạo về kỹ  thuật 
cũng  là các yếu  tố ảnh hưởng không nhỏ đến 
việc  lấy  lõi mô.  Chúng  tôi  thực  hiện  nghiên 
cứu với kim Jamshidi, với ưu điểm là khả năng 
tạo áp lục hút của kim, kéo được mô mềm vào 
kim nhiều hơn. Khi  thực hiện ST  càng nhiều, 
dần  thành  thạo  được  khả  năng  cắt‐hút  của 
kim, chúng  tôi  thu  thập  lõi mô  thuận  lợi hơn. 
Adams, Woon khẳng  định  chất  lượng  lõi mô 
phụ thuộc vào sự quen thuộc kỹ thuật và nhận 
định của ê kíp bác sĩ nhiều chuyên khoa phối 
hợp thực hiện(1,13). 
Tình trạng vật lý của mô thương tổn góp phần 
ảnh hưởng đến khả năng lấy lõi mô 
ST  lõi dễ  lấy được mô bướu bở, mềm hơn 
mô bướu dai chắc. Chúng tôi gặp khó khăn khi 
ST  lõi  loại bướu dai,  chắc. Yang nhận xét  các 
loại bướu lành, hay có grade mô học thấp chứa 
nhiều mô sợi dai dính sẽ khó ST hơn các  loại 
bướu ác tính(14).  
Độ chính xác 
Độ chính xác  trong nghiên cứu của chúng 
tôi  là 84%, nằm trong khoảng dao động  trong 
khoảng 80%  tới 97% độ chính xác của các  tác 
giả nước ngoài. 
Sự thành thạo về mặt kỹ thuật có ảnh hưởng 
không nhỏ lên độ chính xác 
Hầu  hết  các  trường  hợp  không  chính  xác, 
không chẩn đoán là ở giai đoạn đầu. Về sau, việc 
thực hiện kỹ  thuật ST kim  Jamshidi của chúng 
tôi đã quen thuộc, hầu hết các kết quả đều chính 
xác.  Adams  có  được  độ  chính  xác  91%  với 
nghiên cứu được thực hiện ở hai trung tâm nơi 
ST lõi được thực hiện thường quy(1).  
Những khiếm khuyết về hỗ trợ của hình ảnh 
học có thể  làm cho độ chính xác dao động 
khá lớn 
Sự hỗ trợ của hình ảnh học trong nghiên cứu 
của chúng tôi chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo 
trước mổ. Tuy nhiên, độ chính xác 84% cũng gặp 
trong  nghiên  cứu  của  Serpell  khi  tác  giả  cũng 
thực hiện ST mù bướu mô mềm(11).  
Ảnh  hưởng  của  bản  chất  mô  bướu  tới  độ 
chính xác 
ST lõi chính xác hơn với các loại bướu ác tính 
và các  loại bướu  lành  tính  có  tính  chất mô bở, 
lỏng  lẻo;  gặp  khó  khăn  với  bướu mô mềm  có 
tính chất dai chắc như bướu sợi.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 428
Độ nhạy và độ đặc hiệu 
Độ nhạy của phương pháp ST  lõi  là 85,2%, 
nghĩa  là  khả  năng  phát  hiện,  chẩn  đoán  bệnh 
của phương pháp này khá tốt. Độ đặc hiệu 100% 
chứng minh được độ tin cậy cao của ST lõi.  
Ảnh hưởng của yếu tố kỹ thuật và yếu tố GPB 
lên độ nhạy, độ đặc hiệu 
Các  lỗi ST chắc hẳn sẽ giảm đi nếu kết quả 
của chúng  tôi  được  đọc bởi một nhóm  chuyên 
gia  thuần nhất. Đó  cũng  là một  điểm yếu nữa 
trong nghiên cứu. Tuy nhiên,  tất cả các  trường 
hợp ST  lõi do một người  thực hiện với sự  tăng 
dần mức thành thạo về kỹ thuật, đều có so sánh 
với kết quả cuối cùng đọc bởi các cán bộ giảng 
của  bộ môn GPB,  có  đối  chiếu  với  lâm  sàng  ‐ 
hình ảnh học nên các số liệu có giá trị. Kissin cho 
rằng  kết  quả  GPB  nên  được  đọc  bởi  bác  sĩ 
chuyên sâu về bệnh học sẽ có độ nhạy cao hơn 
các bác sĩ GPB không chuyên khác. Ông so sánh 
3 nhà GPB,  độ nhạy do bác  sĩ  chuyên  sâu  đọc 
thu  được  là  90,9%,  cao  hơn  hai  bác  sĩ  không 
chuyên sâu (86,4% và 81,8%)(5).  
Hiện nay, nhiều  tác giả nghiên  cứu dùng 
phương  tiện  chẩn  đoán  hình  ảnh  để  hướng  dẫn 
đường  kim  ST  nhằm  tăng  độ  chính  xác,  có  độ 
nhạy  cao hơn hẳn nghiên  cứu  của  chúng  tôi. 
Dưới sự hướng dẫn của MRI với độ mở 0,23T 
Imager, Parkkola  có kết quả  độ nhạy,  độ  đặc 
hiệu là 96,5% và 100%(9), còn với sự hỗ trợ của 
máy hút áp lục âm có CT hướng dẫn, Mohr đạt 
99% và 100%(6).  
Biến chứng 
Không có biến chứng nào  trong và  sau khi 
ST kim. Kết quả này cũng tương tự với nhiều tác 
giả  khác  như  Adams,  Kissin,  Serpell,  Pohlig, 
Woon.  Các  tài  liệu  y  văn  đều  ghi  nhận  biến 
chứng ST lõi rất ít, chỉ từ 0% đến 1%. Trong khi 
đó, biến chứng của ST mổ cao gấp nhiều lần, từ 
4%  đến  19%(1).  Serpell  ghi  nhận  2  BN  có  biến 
chứng nghiêm trọng khi ST mổ. Một trường hợp 
phải hoãn xạ trị vì thám sát thấy mô bướu phát 
triển  trong  vùng mổ  ST.  BN  còn  lại  bị  nhiễm 
trùng khu vực mổ, phải cắt bỏ một phần ba dưới 
đùi(11).  Tỷ  lệ  biến  chứng  rất  thấp,  không  ảnh 
hưởng tới quá trình điều trị là một ưu điểm vượt 
trội của của phương pháp ST lõi so với ST mổ.  
Khả năng thay thế ST mổ bằng ST lõi 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đã  chứng minh 
được khả năng  lấy được đủ  lõi mô bướu bằng 
kim ST đủ cho việc đọc kết quả GPB chính xác. 
Biến  chứng  của  phương  pháp  này  hầu  như 
không đáng kể. Tuy nhiên, độ chính xác của ST 
mổ vẫn cao hơn ST lõi. ST lõi vẫn chưa thay thế 
hoàn toàn được ST mổ. Thế nhưng, ST  lõi giúp 
BN giảm bớt số lần ST mổ, hay nói cách khác là 
ST lõi giúp chừa lại những trường hợp chỉ có thể 
ST mổ mà thôi. 
KẾT LUẬN 
Từ  tháng  07/2012  –  04/2013, qua  50  trường 
hợp ST kim: 
1.  Khả  năng  lấy  được mẫu mô  bướu  cho 
chẩn đoán đạt 92%. Giữ nguyên  tắc  tối  thiểu 3 
lần đâm kim, lấy ít nhất 3 lõi mô bướu, quan sát 
kĩ vị trí bướu trên hình ảnh học trước mổ cùng 
với sự quen thuộc trong thực hiện kỹ thuật giúp 
nâng cao chất lượng mẫu mô ST. 
2. Phương pháp ST  lõi có giá  trị chẩn đoán 
cao, độ chính xác đạt 84%. Độ nhạy của phương 
pháp ST  lõi đạt 85.2% và độ chuyên biệt  là 100 
%, cho phép phát hiện bệnh  tốt và  tin cậy vào 
kết  quả  của  phương  pháp.  Sự  thành  thạo  kỹ 
thuật,  tham  khảo  hình  ảnh  học  trước mổ,  kết 
quả GPB đọc bởi bác sĩ chuyên sâu về bướu tứ 
chi sẽ đảm bảo độ chính xác cao.  
3. Không ghi nhận bất kỳ biến chứng  trong 
và sau mổ. ST lõi là một phương pháp an toàn, 
biến chứng sau mổ không đáng kể.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adams  SC,  Potter  BK,  Pitcher DJ.  2010;  ʺOffice‐based Core 
Needle  Biopsy  of  Bone  and  Soft  Tissue Malignancies‐  An 
Accurate  Alternative  to  Open  Biopsy  with  Infrequent 
Complicationsʺ. Clin Orthop Relat Res. 468 (10): 2774‐80. 
2. Auyeung J, Dildey P, Murray S. 2010;ʺAccuracy of trucut and 
incision biopsy in the diagnosis of soft tissue massesʺ. Journal 
of Bone Joint Surgery. 92.B (68). 
3. Bickels  J,  Jelinek  J,  Shmookler  B,  et  al.  2004;  “Biopsy  of 
musculoskeletal  tumors”.  Musculoskeletal  cancer  surgery.  89: 
37‐46.  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  429
4. Jelinek  JS,  Murphey  MD,  Welker  JA.  2002;  ʺDiagnosis  of 
Primary  Bone  Tumors  with  Image‐guided  Percutaneous 
Biopsy: Experience with 110 Tumorsʺ. Radiology. 223:731‐7. 
5. Kissin M, Fisher C, Carter R. 1986; ʺValue of Tru‐cut biopsy in 
the diagnosis of soft tissue tumoursʺ. Br J Surg. 73(9):742‐4. 
6. Mohr  Z,  Hirche  C,  Klein  T.  2012;  ʺVacuum‐Assisted 
Minimally Invasive Biopsy of Soft‐Tissue Tumorsʺ. Bone Joint 
Surg Am. 94:103‐9. 
7. Mitsuyoshi G, Naito N, Kawai A. 2006; ʺAccurate diagnosis of 
musculoskeletal lesions by core needle biopsyʺ. J Surg Oncol. 
94:21‐7.  
8. Oetgen ME.  2008;  ʺCore needle biopsies of musculoskeletal 
tumors: potential pitfallsʺ. Orthopedics. 31(12). 
9. Parkkola  RK,  Mattila  KT,  Heikkila  JT.  2001;  ʺMR‐Guided 
Core  Biopsies  of  Soft  Tissue  Tumours  on  an Open  0.23  T 
Imagerʺ. Acta Radiologica. 42:302‐5. 
10. Pohlig  F,  Kirchhoff  C,  Lenze  U.  2012;  ʺPercutaneous  core 
needle biopsy versus open biopsy in diagnostics of bone and 
soft tissue sarcoma‐ a retrospective studyʺ. European Journal of 
Medical Research. 17:29‐34.  
11. Serpell  JW, Fisher C, Fish SH, et al. 1992;  ʺThe diagnosis of 
soft  tissue  tumoursʺ. Annals of the Royal College of Surgeons of 
England. 74:277‐80. 
12. Soudack M, Nachtigal A, Vladovski E. 2006; ʺSonographically 
Guided Percutaneous Needle Biopsy  of  Soft Tissue Masses 
With Histopathologic Correlationʺ. J Ultrasound Med. 25: 1271‐
7. 
13. Woon DTS, Serpell JW. 2008; ʺPreoperative core biopsy of soft 
tissue  tumours  facilitates  their  surgical management:  a  10‐
year updateʺ. ANZ J Surg. 78: 977‐81. 
14. Yang  YJ,  Damron  TA.  2001;  ʺComparison  of Needle  Core 
Biopsy and Fine‐Needle Aspiration  for Diagnostic Accuracy 
in Musculoskeletal Lesionsʺ. Arch Pathol Lab Med. 128: 759‐64. 
Ngày nhận bài báo: 24/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/10/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014