Kế toán giá trị hợp lý trong ngân hàng là thực sự cần thiết bởi đối tượng
kế toán ngân hàng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của chúng thường
xuyên biến động theo giá thị trường. Các ngân hàng cần công bố thông tin về các
đối tượng kế toán theo nguyên tắc giá trị hợp lý thay vì nguyên tắc giá gốc để phản
ánh đúng giá trị thực của chúng, đảm bảo cho các thông tin được cung cấp một
cách trung thực, hợp lí, minh bạch hơn, giúp cho những người sử dụng thông tin có
hiệu quả hơn. Cùng với xu hướng hội nhập kế toán quốc tế, việc áp dụng kế toán giá
trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là một xu
thế tất yếu. Dựa trên tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng
kế toán giá trị hợp lý, bài viết xây dựng mô hình nghiên cứu, khảo sát thực tế, phân
tích thống kê cho kết quả xác định 05 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế
toán giá trị hợp lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm: cảm nhận về
lợi ích và bất lợi của giá trị hợp lý, môi trường pháp luật, môi trường nghề nghiệp,
môi trường kinh doanh và môi trường kinh tế. Đây là cơ sở đề xuất giải pháp áp
dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam trong thời gian tới.
13 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tắc kế toán liên quan đến GTHL.
Các qui định về GTHL được đề cập trong
Điều số 3, số 6 và số 28 trong Luật Kế toán
năm 2015. Tuy nhiên, trong Điều 6 Khoản
1 lại có qui định: “Giá trị tài sản và nợ phải
trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc” là
không tương thích với qui định của IFRS
(IFRS qui định tài sản tài chính và nợ phải
trả tài chính khi ghi nhận ban đầu được xác
định theo GTHL).
Do vậy, để có đầy đủ cơ sở pháp lý cho
việc áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM
Việt Nam thì cần phải nghiên cứu chỉnh
sửa, bổ sung các văn bản từ cấp cao nhất
là Luật Kế toán cho đến các chuẩn mực kế
toán và thông tư hướng dẫn theo hướng
tiếp cận với hệ thống chuẩn mực quốc tế.
Cụ thể là: sửa đổi nguyên tắc giá gốc trong
Luật Kế toán số 88/2015/QH13 theo hướng
không quy định cụ thể trong Luật vì đã có
quy định trong Chuẩn mực chung, tức là
chỉ cần quy định “các nguyên tắc kế toán
áp dụng phải tuân thủ theo quy định của
Chuẩn mực chung”; nghiên cứu ban hành
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
các chuẩn mực kế toán về GTHL và công
cụ tài chính theo lộ trình phù hợp; rà soát
chỉnh sửa, cập nhật đối với các chuẩn mực
kế toán hiện có về GTHL cho phù hợp với
chuẩn mực quốc tế và ban hành các thông
tư hướng dẫn cụ thể việc đo lường công cụ
tài chính, đối tượng kế toán chủ yếu của
ngân hàng.
Tất cả những công việc trên cần có một cơ
quan chịu trách nhiệm thực hiện, do vậy
cần thành lập Ủy ban Chuẩn mực kế toán
Việt Nam với nòng cốt là thành viên của
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, Hội
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam và các
chuyên gia đầu ngành ở các trường đại học,
duy trì hoạt động thường xuyên và liên tục,
chịu sự giám sát của Hội đồng quốc gia về
kế toán, Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài chính.
Ủy ban này có vai trò soạn thảo, ban hành
CMKT và các hướng dẫn, tham gia giám
định và xử lý các tranh chấp về kế toán.
Điều này có ý nghĩa quyết định trong việc
cập nhật hệ thống CMKT Việt Nam theo
kịp sự phát triển của nền kinh tế và quốc tế,
tăng cường sự bình đẳng trước các quy tắc
nghề nghiệp giữa cơ quan quản lý nhà nước,
doanh nghiệp và người làm nghề, tăng tính
độc lập xét đoán trong các ước tính kế toán
đặc biệt là đo lường theo GTHL của doanh
nghiệp và người làm nghề.
5.3. Nhóm giải pháp về môi trường nghề
nghiệp - kế toán
Thứ nhất, cần nâng cao vai trò của các tổ
chức, hội nghề nghiệp kế toán. Theo đó, cần
có các giải pháp gia tăng vai trò quản lý,
đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho người
làm nghề kế toán; Giao quyền tổ chức thi
và cấp chứng chỉ hành nghề cho hội nghề
nghiệp; nâng cao uy tín hội nghề nghiệp; và
đẩy mạnh hoạt động giao lưu trao đổi quốc
tế với các hội nghề nghiệp ở các quốc gia
trên thế giới để học tập kinh nghiệm điều
hành, phát triển hội.
Thứ hai, cần nâng cao trình độ hiểu biết
của người làm nghề kế toán về GTHL.
Trong đó quan trọng là các trường đại học,
tổ chức đào tạo kế toán cần đi đầu trong
việc bắt kịp xu hướng phát triển của GTHL
để nghiên cứu đưa vào chương trình giảng
dạy cho sinh viên; các doanh nghiệp nói
chung và NHTM cần tạo điều kiện cho
nhân viên kế toán học tập nâng cao trình
độ, có chế độ đãi ngộ phù hợp với những
người có trình độ chuyên môn cao; phát
huy năng lực tự nghiên cứu của người làm
kế toán Việt Nam, đây được xem là giải
pháp đơn giản nhưng hữu hiệu nhất.
5.4. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường
kinh doanh
Để cải thiện môi trường kinh doanh, Chính
phủ cần có chiến lược để từng bước hoàn
thiện hệ thống thị trường hoạt động; xây
dựng thị trường hàng hoá và thị trường tài
chính theo hướng ngày càng minh bạch để
đáp ứng nhu cầu tìm kiếm dữ liệu tham
chiếu để đo lường GTHL.
Một là, hoàn thiện các điều kiện hoạt động
của các sàn giao dịch hàng hóa cho các mặt
hàng mà người dân và doanh nghiệp có nhu
cầu mua bán hợp pháp nhằm mở rộng các
mặt hàng được phép giao dịch trên sàn.
Hai là, hoàn thiện và phát triển thị trường
tài chính theo chiều sâu.
Ba là, ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin
vào việc quản lý điều hành giá cả thị trường,
xây dựng các sàn giao dịch trực tuyến.
5.5. Nhóm giải pháp tạo sức ép buộc các
ngân hàng thương mại áp dụng kế toán
giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế
Đối với các NHTM Việt Nam hiện nay,
việc áp dụng tự nguyện kế toán GTHL còn
chưa phổ biến, một trong những nguyên
TRỊNH HỒNG HẠNH
49Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
nhân được các chuyên gia chỉ ra là do Chính
phủ chưa định hướng mạnh mẽ cho việc áp
dụng IFRS; Các NHTM Việt Nam đa phần
nhỏ, chưa chú trọng vào thu hút vốn trên thị
trường quốc tế. Do vậy cần phải thực hiện
những giải pháp sau để tạo sức ép, buộc các
NHTM áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn
mực quốc tế:
Thứ nhất, Chính phủ cần công bố chính
thức trên phương diện quốc tế, đưa ra cam
kết cụ thể để đưa Việt Nam vào danh sách
các quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng
IFRS. Đồng thời, cần có sự điều hành chỉ
đạo của Chính phủ trong việc tuyên truyền
quảng bá cho việc áp dụng IFRS. Phải xác
định việc hoà hợp hay hội tụ với kế toán
quốc tế không phải là việc riêng của Bộ Tài
chính mà cần có sự vào cuộc của các Bộ,
Ban ngành có liên quan.
Thứ hai, Bộ Tài chính cần sớm quyết định
và tuyên bố lộ trình cũng như lựa chọn mô
hình áp dụng IFRS phù hợp với Việt Nam.
Việc tuyên bố lộ trình là cần thiết để có
mục tiêu hành động rõ ràng.
6. Kết luận
Bài viết đã tổng hợp các tổng quan nghiên
cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp
dụng kế toán GTHL để xây dựng mô hình
nghiên cứu, lấy phiếu khảo sát thực tế và
kiểm định bằng công cụ thống kê SPSS để
xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán
GTHL theo chuẩn mực quốc tế của các
NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, các nhân tố cản trở hoặc là làm cho
việc sử dụng GTHL cũng như quá trình hội
tụ với IFRS của Việt Nam còn diễn ra chậm
chạp sắp xếp theo thứ tự từ mạnh đến yếu
bao gồm: cảm nhận về bất lợi của GTHL,
môi trường pháp luật, môi trường nghề
nghiệp, môi trường kinh doanh và môi
trường kinh tế; Nhân tố đang tạo ra động
lực lớn nhất cho việc sử dụng GTHL tại
các NHTM Việt Nam cũng là nhân tố có
ảnh hưởng lớn nhất đến mức độ sử dụng
GTHL là Cảm nhận về lợi ích của GTHL.
Trên cơ sở mức độ ảnh hưởng mạnh yếu
của các nhân tố đó, bài viết đã đưa ra các
nhóm giải pháp tương ứng nhằm áp dụng
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại
các NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, nghiên cứu này còn có hạn chế
là việc thu thập thông tin từ các NHTM
Việt Nam chưa phân biệt được theo quy mô
ngân hàng. Điều này cũng có ảnh hưởng
đến việc nhận thức, nhu cầu và khả năng áp
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc
tế. Hơn nữa, mô hình nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở việc xem xét ảnh hưởng của các
nhân tố (biến độc lập) đến việc áp dụng kế
toán GTHL tại các NHTM Việt Nam (biến
phụ thuộc). Trong thực tế thì các mối quan
hệ sẽ phức tạp hơn, những biến độc lập sẽ
có những mối quan hệ, có ảnh hưởng lẫn
nhau và còn chịu ảnh hưởng bởi cơ chế thực
thi pháp luật. Do vậy, kết quả nghiên cứu
mang tính chất là những phác thảo ban đầu,
cho cái nhìn cơ bản về mô hình các nhân tố
ảnh hưởng đến áp dụng kế toán GTHL tại
các NHTM Việt Nam ■
Tài liệu tham khảo
Archambault, J. J., and Archambault, M. E. (2003), A multinational test of determinants of corporate disclosure, The
International Journal of Accounting, 38, 173–194.
Ashraf, J., and Ghani, W. I. (2005), Accounting development in Pakistan, The International Journal of Accounting, 40,
175–201.
Askary, S. (2006), Accounting professionalism – a cultural perspective of developing countries, Managerial Auditing
Journal, 21(1), 102-111.
Bộ Tài chính (2008), 26 CMKT Việt Nam (2001-2006), Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
Chand, P., and Patel, C. (2008), Convergence and harmonization of accounting standards in the South Pacific region,
Advances in Accounting, incorporating Advances in International Accounting, 24, 83–92.
Chen, S., Sun, Z., and Wang, Y. (2002), Evidence from China on whether harmonized accounting standards harmonize
accounting practices, Accounting Horizons, 16(3), 183-197.
Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử dụng giá trị hợp lý trong chế độ kế toán DN
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
Floropoulos, I. (2006), IFRS- First time users: some empirical evidence from Greek companies, SPOUDAI, 56(3), 39-
70.
Francis, J., Schipper, K. & Vincent, L. (2002), Earnings announcements and competing information, Journal of
Accounting and Economics, 33, 313-342
Gray, S. J. (1988), Towards a theory of cultural influence on the development of accounting systems internationally,
Abacus, 24, 1-15.
Hà Thị Ngọc Hà (2016), Cập nhật chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế với việc góp
phần tăng cường chất lượng báo cáo tài chính được kiểm toán, truy cập ngày 15/7/2016, từ
org.vn/.
Hair, J.F. Jr., Anderson, R.E., Tatham, R.L., & Black, W.C. (1998), Multivariate Data Analysis, (5th Edition), Upper
Saddle River, NJ: Prentice Hall.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích Dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Đại học Kinh tế TP
HCM.
Hofstede G. (1980), Culture’s consequences: international differences in work-related values, Bevarly HILLS, CA:
Sage.
Hofstede G. (1983), The cultural relativity of organizational practices and theories, Journal of International Business
Studies, 14(2), 75-89.
Hofstede G. (1984), Cultural Dimensions in Management and Planning, Asian and Pacific Journal of Management,
83-84.
Hung, M,. and Subramanyam, K. R. (2007), Financial statement effects of adopting international accounting standards:
the case of Germany, Review of Accounting Studies, 12(4), 623-657.
IFRS 13- Fair Value Measurement; IFRS 9 Financial Instruments ; IAS 32 Financial Instruments: Presentation; IAS
39: Financial Instruments: Recognition and Measurement, https://www.iasplus.com/en/standards
Irvine, H. (2008), The global institutionalization of financial reporting: the case of the United Arab Emirates,
Accounting Forum, 32, 125–142.
Irvine, H. J., and Lucas, N. (2006), The rational and impact of the adoption of International Financial Reporting
Standards: the case of the United Arab Emirates, 18th Asian-Pacific Conference on International Accounting
Issues, 1-22.
Joshi, P. L., and Ramadhan, S. (2002), The adoption of international accounting standards by small and closely held
companies: evidence from Bahrain, The International Journal of Accounting, 37, 429-440.
Lê Hoàng Phúc (2012), Thực trạng và định hướng sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam, Tạp chí kiểm toán, Số
1.
Lundqvist, P., Marton, J., Pettersson, A. K., and Rehnberg, P. (2008), IFRS -implementation in listed companies-
identification of factors leading to inconsistent application, Conference paper, School of Business, Economics and
Law, Gothenburg University.
Mai Ngọc Anh (2011), Có nên sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở tính giá duy nhất trong
kế toán tài chính, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Kiểm toán, số tháng 3.
Nguyễn Thế Lộc, 2010, Tính thích hợp và đáng tin cậy của giá trị hợp lý trong hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế. Tạp
chí Phát triển & Hội nhập, số 3.
Perera, H., and Baydoun, N. (2007), Convergence with International Financial Reporting Standards: the case of
Indonesia, Advances in International Accounting, 20, 201–224.
Spathis, C., and Geograkopoulou E. (2007), The adoption of IFRS in South Eastern Europe: the case of Greece. Int. J.
Financial Services Management, 2(1/2), 50-63.
Quốc hội, 2015, Luật kế toán Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_ap_dung_ke_toan_gia_tri_hop_ly_theo_chuan_muc_quoc.pdf