+ Thói giấu dốt bị lật tẩy.
+ Thầy nhạo báng cái dốt của thổ công" Mình 
đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn"
+ Thầy đã lòi cái đuôi dốt, nhưng vẫn còn 
gượng gạo giấu dốt" Tôi vẫn biết ấy là chữ"kê", 
mà "kê" nghĩa là "gà", nhưng tôi dạy thế là dạy 
cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia. Thế 
này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con 
công, con công là ông con gà!"
+ Cái dốt nọ lồng vào cái dốt kia. Chẳng những 
không có con dủ dỉ, mà con công đâu phải cùng 
nguồn gốc với con gà
* Chữ "kê' dù nhiều nét, nhưng không khó, nó ở 
ngay quyển " Tam thiên tự" (3000 chữ) -sách 
cho trẻ học Hán ngữ, giải nghĩa rõ ràng, có vần 
dễ thuộc
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Giáo án Tam đại con gà nhưng nó phải bằng hai mày, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAM ĐẠI CON GÀ 
NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY 
( Truyện cười) 
A/ MỤC TIÊU BÀI HỌC 
Giúp H S: 
- Hiểu được đối tượng, nguyên nhân, ý nghĩa của tiếng cười trong từng 
truyện. 
- Thấy được nghệ thuật đặc sắc của truyện cười: rất ngắn gọn, tạo được 
những yếu tố bất ngờ, những cử chỉ lời nói gây cười 
B/ PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN 
- SGK, SGV 
- Thiết kế bài giảng 
- Các tài liệu tham khảo 
C/ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH 
GV tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp giữa các phương pháp đọc sáng 
tạo, gợi tìm, nêu vấn đề và trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi 
 D/ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 
1. Kiểm tra bài cũ: 
-Tóm tắt truyện Tấm Cám 
- Phân tích ý nghĩa quá trình biến hoá của Tấm 
2. Bài mới: 
Hoạt động của GV và 
HS 
Yêu cầu cần đạt 
- HS đọc phần Tiểu dẫn 
SGK 
 -Nội dung của phần tiểu 
dẫn 
 nêu những gì? 
- Nhân vật trong truyện là 
ai? 
- Cái cười được thể hiện 
như thế nào? 
"Thầy" liên tiếp bị đặt vào 
những tình huống nào? 
A. Tam đại con gà 
I. Tìm hiểu chung 
- Truyện cười có hai loại: truyện khôi hài và 
truyện trào phúng 
Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí. 
Truyện trào phúng có mục đích phê phán. 
II. Đọc hiểu 
1. Cái cười 
- Nhân vật là anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ 
- Tình huống thứ nhất: 
+ Chữ "kê" thầy không nhận ra mặt chữ. 
Học trò hỏi gấp, thầy nói liều " Dủ dỉ là con dù 
dì". 
+ Dủ dỉ đâu phải là chữ Hán, mà trên đời này 
làm gì có con vật nào là dủ dỉ. 
Thầy đã giải quyết như 
thế nào? 
+ Thầy đã dốt lại liều lĩnh 
+ Rõ ràng anh ta vừa thiếu kiến thức sách vở 
vừa thiếu kiến thức thực tế. Cái dốt đã được 
định lượng. 
- Tình huống thứ hai: 
Thầy giấu dốt và sĩ diện. " Thầy cũng khôn sợ 
nhỡ sai người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học 
trò đọc khe khẽ". 
+ Rõ ràng anh ta cũng thận trọng trong việc giấu 
dốt. 
+ Anh ta dùng cái láu cá để gỡ bí. 
+ Đó là cách giấu dốt. 
- Tình huống thứ ba: 
+ Thầy tìm đến thổ công: Xin ba đài âm dương 
đều được. Thầy đắc ý "Bệ vệ ngồi lên giường 
bảo trẻ đọc to". 
+ Cái dốt đã được khuếch đại và được nâng lên. 
- Tình huống thứ tư: 
Chạm trán với chủ nhà. 
- Hãy chỉ ra ý nghĩa phê 
phán của truyện. ( Có 
phải chỉ phê phán một đối 
tượng cụ thể là anh học 
trò dốt không?) 
+ Thói giấu dốt bị lật tẩy. 
+ Thầy nhạo báng cái dốt của thổ công" Mình 
đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn" 
+ Thầy đã lòi cái đuôi dốt, nhưng vẫn còn 
gượng gạo giấu dốt" Tôi vẫn biết ấy là chữ"kê", 
mà "kê" nghĩa là "gà", nhưng tôi dạy thế là dạy 
cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia. Thế 
này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con 
công, con công là ông con gà!" 
+ Cái dốt nọ lồng vào cái dốt kia. Chẳng những 
không có con dủ dỉ, mà con công đâu phải cùng 
nguồn gốc với con gà 
* Chữ "kê' dù nhiều nét, nhưng không khó, nó ở 
ngay quyển " Tam thiên tự" (3000 chữ) -sách 
cho trẻ học Hán ngữ, giải nghĩa rõ ràng, có vần 
dễ thuộc 
2. Bản chất cái cười 
- Truyện phê phán thói giấu dốt- một tật xấu có 
thật trong một bộ phận nhân dân. Ý nghĩa phê 
phán đó toát lên từ hành động tức cười của một 
- Nhân vật trong truyện là 
những ai? 
- Cái cười được miêu tả 
như thế nào? Phân tích 
tính kịch trong đoạn" Cải 
vội xoè năm ngón 
tay...bằng hai mày" 
anh thầy đồ đã dốt mà lại còn muốn giấu dốt, 
nhưng càng cố tình che giấu một cách liều lĩnh 
thì sự dốt nát lại càng bộc lộ ra một cách ngây 
ngô. Anh học trò này lại đi dạy trẻ thì thói xấu 
đó càng có khả năng gây hậu quả khôn lường. 
- Đằng sau sự phê phán đó thiết tưởng những 
người lao động đầy lương tri, khi xây dựng 
truyện, còn ngầm ý khuyên răn mọi người- nhất 
là những người đi học- chớ nên giấu dốt, hẫy 
mạnh dạn học hỏi không ngừng. 
Ghi nhớ: 
 Cái dốt không che đậy được, càng giấu càng 
lộ ra, càng làm trò cười cho thiên hạ. Nghệ thuật 
gây cười của truyện được khai thác từ mâu 
thuẫn trái tự nhiên này. 
B.Nhưng nó phải bằng hai mày 
1. Cái cười 
- Nhân vật trong truyện là lí trưởng với hai 
người thưa kiện là Cải và Ngô. 
a.Trước hết, cần xem xét mối quan hệ giữa Cải 
Chú ý: + Quan hệ giữa 
hai nhân vật: Cải và thầy 
lí. 
 + Sự kết hợp giữa 
lời nói và động tác của 
hai nhân vật ấy. 
và thầy lí trước đó: Quan hệ này đã được dàn 
xếp (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí). 
- Song mâu thuẫn lại đột ngột xuất hiện khi thầy 
lí tuyên bố đánh Cải mười roi. Màn kịch ngắn 
bắt đầu diễn ra. Một bên chủ động, còn bên kia 
hoàn toàn bị động. Một bên xin xét lại, một bên 
cứ kết án. 
- Động tác và lời nói của hai bên hoàn toàn trái 
ngược nhau. 
- Quan trọng nhất là câu kết luận của thầy lí ( 
phải và phải bằng hai) vạch trần thủ đoạn của 
thầy lí mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ 
" đòn xóc hai đầu". 
b.Sự kết hợp của hai thứ "ngôn ngữ "trong 
truyện 
- Lẽ phải - xoè năm ngón tay. 
- Lẽ phải được nhân đôi- xoè năm ngón tay trái 
úp lên năm ngón tay mặt. 
- Ngôn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, 
nói cho tất cả những người có mặt nghe. 
- Giá trị tố cáo của truyện 
là gì ? 
- Phân tích nghệ thuật gây 
cười qua lời nói của thầy 
lí ở cuối truyện. 
- " Ngôn ngữ" bằng động tác ( cử chỉ ) là thứ 
ngôn ngữ "mật", chỉ có người trong cuộc ( thầy 
lí và Cải ) 
mới hiểu được. 
- Sự bất đồng của hai thứ "ngôn ngữ" này được 
thống nhất lại với nhau, cùng có giá trị ngang 
nhau:Lẽ phải được tính bằng năm ngón tay, hai 
lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. 
Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người 
đọc là: ngón tay Cải trở thành "kí hiệu" của tiền 
tệ; hai bàn tay úp vào nhau của quan là "kí hiệu" 
cho lượng tiền đút lót của Ngô và Cải. Ngưòi 
đọc sẽ hình dung ra một tam đoạn luận: 
 Lẽ phải = ngón tay/ bàn tay= tiền. 
Do đó suy ra: Lẽ phải = tiền. 
- Giá trị tố cáo của truyện chính là ở đây. Lẽ 
phải đối với lí trưởng được đo bằng tiền. Tiền 
quyết định lẽ phải. Tiền nhiều thì lẽ phải nhiều, 
tiền ít thì lẽ phải ít 
c. Lời nói gây cười kết thúc truyện 
- Em đánh giá như thế 
nào về nhân vật Ngô và 
Cải ? 
- Phải và phải bằng hai là hình thức chơi chữ 
độc đáo ở truyện này. Phải là từ tính chất nhưng 
lại được dùng kết hợp với từ chỉ số lượng, tạo ra 
nhận thức về sự bất hợp lí trong tư duy người 
nghe. Tuy nhiên điều này lại có vẻ rất hợp lí khi 
ta liên tưởng đến năm đồng và mười đồng tiền 
đút lót của Ngô và Cải. 
- Lời nói của thầy lí vừa vô lí lại vừa hợp lí. Vô 
lí trong xử kiện, nhưng hợp lí trong mối quan hệ 
thực tế giữa các nhân vật. Lí trưởng đã dùng cái 
hợp lí để thay thế cho cái vô lí và do đó cũng thể 
hiện một cách sinh động và hài hước bản chất 
tham nhũng của mình. Tiếng cười bật ra khi ta 
đồng thời nhận thức được cả hai ý nghĩa này. 
d. Bình luận về nhân vật Ngô và Cải 
- Cải vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm. Hành vi 
tiêu cực làm anh ta trở nên thảm hại vừa mất 
tiền vừa phải phạt một chục roi. Anh ta vừa 
đáng thương vừa đáng trách. 
- Ngô đã làm cho lí trưởng hư hỏng. Anh ta 
cũng đáng bị lên án. 
2. Bản chất cái cười 
Bằng sự kết hợp lời nói với cử chỉ, lối chơi chữ 
độc đáo, truyện đã vạch trần lối xử kiện vì tiền 
của quan lại. Người lao động trong trường hợp 
này cũng lâm vào cảnh bi hài, vừa đáng thương 
vừa đáng trách. 
C. Luyện tập 
Về nhà 
Làm rõ đặc trưng của thể loại truyện cười. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 57_.pdf 57_.pdf