Hoạt động hướng nghiệp, một phần quan trọng của tư vấn học đường ngày 
nay, bắt nguồn từ công trình nghiên cứu “Tổng quan thị trường nghề nghiệp trên 
thế giới” từ đầu thế kỷ 17 của một người Ý, Tomasco Gazoni, đ ược dịch ra nhiều 
thứ tiếng, tiếng Anh là “ The Universal Plaza of All the Professions of the 
World”. Năm 1631, Poowell, một người Anh xuất bản cuốn “Tom of All Trades 
or The Plain Pathways to Perferment”, một cuốn sách gồm các hình ảnh thông 
tin về các ngành nghề. Năm 1747, xu ất bản cuốn “London Tradesman’ liệt kê tích 
hợp tất cả ngành nghề đang phát triển ở Luân đôn làm kim chỉ nam cho người lao 
động trẻ vào đời. . 
Cùng với sự ra đời và lớn mạnh của triết học quan tâm đến con người, tôn 
trọng cá nhân và quyền dân chủ, sự phát triển của khoa học tâm lý thực nghiệm, 
tâm lý về nhân cách, xã hội và sự phát triển của ngành thống kê học. Đặc biệt là 
ngành tâm lý trị liệu, tâm thần học. Năm 1909, William Healy thành l ập “ Trung 
tâm chuyên khoa điều hướng trẻ em” ( Child Guidance Clinic), chăm sóc tâm lý 
giáo dục cho các trẻ hư khu ổ chuột, đã tác động mạnh vào phong trào tư vấn 
hướng dẫn giáo dục, hướng nghiệp . Tuy vậy, lịch sử nghiệp vụ tư vấn học đường 
được ghi nhận xuất phát và lớn mạnh ở Mỹ, từ công tác hướng nghiệp trong học 
đường vào những năm đầu của thế kỷ 20. Trong thập kỷ 1900-1909, có 3 người 
được xem là những người đầu tiên khởi xướng và hệ thống hóa nghiệp vụ tư vấn 
học đường là Jesse B.Davis, Frank Parsons, và Cliffort Beer.(Gladding,2000, 
Counseling,a comprehensive profession).mà chủ yếu là tư vấn hướng nghiệp.
              
                                            
                                
            
 
            
                 102 trang
102 trang | 
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1897 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn học đường - Phần 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phán xét, để tâm hoàn toàn theo dõi câu chuyện. 
Điều quan trọng là quan sát ngôn ngữ hành vi của thân chủ và nhờ giải mã 
được loại ngôn ngữ này tư vấn viên mới hiểu được chính xác những gì thân chủ 
đang trình bày và có thể diển giải lại theo cách thái, ngôn ngữ của thân chủ. Không 
nhất thiết lắng nghe là đồng ý với người nói nhưng phải nói lại một cách đơn giản 
xác định những gì đã nghe. Người nghe tích cực có thể nghe cả những cảm xúc 
đang dâng lên của người nói, nên người nghe không chỉ lập lại những gì đã nghe, 
còn có thể diễn tả nhấn mạnh cảm xúc như sử dụng câu: Hình như bạn cảm thấy 
tức giận, hoặc bạn cảm thấy tuyệt vọng vì... 
Lắng nghe có lợi ích giải quyết xung đột. Trong các cuộc xung đột cá nhân 
thường mâu thuẩn, người này bác bỏ người kia, phe này chống đối phe kia để tự vệ, 
đưa đến sự bộc phát công kích hoặc từ bỏ ra đi. Nếu một trong hai bên hiểu được 
bên kia, qua quá trình lắng nghe, có thể tạo ra một bầu không khí hợp tác, tăng 
cường khả năng cộng tác và giải quyết xung đột. 
Lắng nghe tích cực thường không hiệu quả khi người nghe bị xao lãng, hoặc 
người nói sử dụng ngôn ngữ quá kích động, các từ vựng không rõ nghĩa, khác biệt 
về văn hóa, bị ảnh hưởng bởi các định kiến, bởi tiếng ồn...hay thời gian nghe vượt 
quá giới hạn trung bình mà một người có thể tập trung. 
 Phản hồi đơn giản hay tóm lược 
Phản hồi đơn giản 
Phản hồi đơn giản thường chỉ một tiếng hai tiếng không thành câu, nhưng 
rất nhiệt tình đang theo dõi câu chuyện từ đều lạ này sang điều mới khác…Thường 
it nhất là : ừ hử, vâng, à như thế, như thế sao, vậy hả… 
 Phản hồi tóm lược 
Kỹ thuật phản hồi tóm lượt là nói lại bằng từ ngữ cuả mình một cách cô 
đọng, rõ ràng hơn điều mà thân chủ vừa bày tỏ và đạt được sự tán thành của thân 
chủ. Kỹ thuật phản ảnh là cách thức vận dụng cơ chế đặt câu hỏi thích hợp và lắng 
nghe, còn gọi là lắng nghe tích cực, lắng nghe có phản hồi. 
72 
 Phản hồi soi sáng rõ ràng hơn 
Đặt câu hỏi thích hợp và lắng nghe để thấu cảm hoàn cảnh bức xúc mà thân 
chủ chưa tiện hoặc không dám thổ lộ; giúp thân chủ cảm thấy được quý trọng, 
được cảm thông hiểu biết và quan tâm, thúc đẩy thân chủ có ý muốn được chia sẻ. 
Một mặt khác, cũng giúp tư vấn viên biết được thân chủ của mình đã hiểu vấn đề 
như thế nào, trên bình diện nào, có khiếm khuyết không? 
Kỹ thuật phản hồi soi sáng còn giúp tư vấn viên chắc chắn rằng mình không 
suy diễn quá xa và hiểu đúng vấn đề của thân chủ và cả những ẩn ý của nó. Nếu 
hiểu sai, thì thân chủ có thể giải thích thêm và điều chỉnh kịp thời. 
Ví dụ: 
Thân chủ: - Mỗi ngày con phải đi bán luôn ba buổi, cả hai đứa góp tiền cho cha 
mẹ còn nuôi ba em nữa 
Tư vấn viên: - Gia đình em có bảy người, cha mẹ phải nuôi năm đứa con. Hai đứa 
con là hai đứa lớn phải tích cực lao động? 
 Tóm lại lắng nghe tích cực là Kỹ năng lắng nghe có phản hồi. Có 3 hình thức 
phản hồi : 
 Phản hồi đơn giản : Lập lại điều quan trọng đã được nói lên, gật dầu, ừ hử 
 Phản hồi tóm lược : Nói bằng ngôn ngữ của tư vấn viên điều cốt yếu ma thân 
chủ đã nói ra. 
 Phản hồi soi sáng : Nhìn vấn đề mở rộng, liên hệ đến cấu trúc tính tình và quy 
luật tâm lý. 
Các cách nghe và lắng nghe 
Nghe có nhiều cấp độ, nhiều cách nghe khác nhau 
 Nghe : nhiều âm thanh, nhiều hình tượng 
 Nghe có/ phải chú ý : Tiếng động lớn, kích thích thính giác 
 Nghe có chú tâm : có ý muốn lắng nghe một vấn đề đang quan tâm. Và thường 
có phán xét , như lắng nghe của quan tòa. Của Bố nghe con thuật lại sự việc có 
liên quan đến hành vi đạo đức của con. 
 Chú tâm lắng nghe : Người nghe cởi bỏ hết chuyện riêng tư tập trung trong 
một thời gian để lắng lòng nghe hết những điều mà người nói đề cập đến. Như 
nghe một vấn đề thời sự nghiêm trọng từ máy phát thanh. 
 Lắng nghe tích cực : Chú tâm lắng nghe, cố tìm hiểu, từng đoạn có phản hồi, 
chia sẻ cảm xúc, tư duy, triển khai cho rõ, có tóm lược vấn đề, nói lên ý nghĩa 
đã nghe được. 
73 
 Ca điển hình 
Có một ca điển cứu về việc lắng nghe không lời mà tư vấn viên phải lưu ý suy 
nghĩ, trong nguyên tắc lắng nghe của lý thuyết thân chủ trọng tâm như sau: ( 
Vincent F Calia; Raymond J Corsini (1973), Critical Incidents in School 
Counseling, NXB Consulting Editor, Prentice Hall, trg7-9). 
Dưới nhan đề “ Người đối tác im lặng”, tác giả cho biết mình là một tư vấn 
viên học đường cấp phổ thông trung học trong một cộng đồng mà mọi người đều 
có thu nhập cao. Người thầy trực tiếp hướng dẫn tác giả là một người thường 
không trực tiếp, và rất tôn trọng nguyên tắc không trực tiếp can thiệp gì cả. 
Một ngày nọ, một nữ sinh tìm đến văn phòng tư vấn của tác gi, nói là có vấn 
đề xin cuộc hẹn. Đến hẹn cô gái bước vào văn phòng, sau khi gõ cữa, tư vấn viên 
chào đón nồng hậu và mời ngồi. Từ đó cô ta không nói gì, nước mắt cứ tuôn trào, 
cứ thế kéo dài đến hết 30 phút, giờ quy dịnh tiếp khách một ca tư vấn. Tư vấn viên 
đã làm việc hết mình, chấp hành đúng quy định đã được huấn luyện, luôn săn đón, 
chờ đợi thân chủ bằng ánh mắt, sự chú tâm lắng nghe, dĩ nhiên là không nói lời 
nào. Hết giờ, tư vấn viên nhắc nhỡ và ngạc nhên thay khi hỏi có hẹn đến nữa không 
thì cô ấy lại gật dầu. 
Cứ thế đến lần 2 , rồi lần 3, lần 4 thì cô mới lắc đầu không hẹn nữa. 
Bổng dưng một ngày ( đẹp trời !), người nữ sinh nọ hẹn gặp lại, và rất lạ: Cô 
ấy cám ơn tư vấn viên, vì đã thật sự giúp đỡ cô ta. Tư vấn viên hết sức ngạc nhiên 
kêu lên “ Tôi đã không làm được gì ! Tôi muốn giúp em lắm , nhưng tôi dã không 
làm gì ngoại trừ ngồi nhìn em”. Trong khi cô gái cho biết nhờ thái độ ân cần, 
nhưng không nói lời nào của tư vấn viên, là trường hợp hy hữu giúp cô thấy mình 
được tôn trọng, lắng nghe không phê phán , không khó chịu, tỏ ra hiểu biết, và 
hiểu cả những uẩn khúc của cô ta dù không biết những gì đã xảy ra. Chính sự việc 
này đã làm cho cô ta mạnh mẽ, tự tin, thay đổi nhân cách,trút bỏ ưu phiền, yêu 
cuộc sống hơn. 
74 
Bình luận: 
 (1). Ca này có thật không hay chỉ để minh họa triết lý lắng nghe, tôn trọng thân 
chủ? 
Ý anh chị như thế nào khi gặp ca tương tự? 
Các anh chị tư vấn viên tập sự và các anh chị tư vấn viên lão luyện hành xử có khác 
nhau không trong tình huống này? 
(2). Khi gặp trường hợp thân chủ rơi vào cảnh xúc động, tiêu cực, khóc, buồn rũ 
rượi, làm điên quấy phá, khủng loạn tư vấn viên phải làm gì để giảm cảm giác 
tiêu cực, để lắng nghe? 
(3). Các lý thuyết về giao tiếp, bắt cầu với thế giới thân chủ, trong trường hợp 
này, các anh chị nên làm gi? Và không nên làm gì? Lý giải ? Các tổ thảo luận đưa 
ra ý kiến chung của Ý kiến tập thể tư vấn viên trong hoàn cảnh nhà trường Việt 
Nam của chúng ta? 
 Ngôn ngữ không lời cần lưu ý, thông tin cần thiết phải tập trung 
Ngôn ngữ không lời như trình bày ở phần giao tiếp, ở đây không nói đến kỹ 
thuật mà chỉ nói đến sự quan tâm viêc sử dụng ngôn ngữ không lời . 
Trong câu chuyện vấn đàm, tư vấn viên thường phạm lỗi nói nhiều, sử dụng 
ngôn ngữ hoa mỹ, lôi cuốn thân chủ hoặc say sưa nói về mình, hoặc bàn luận quá 
nhiều khi chưa nắm hết dữ liệu,hoặc đi quá xa tìm kiếm những thông tin không 
liên quan . Điều cấm kỵ nhất đối với tư vấn viên tâm lý là nói nhiều, khi cần nói có 
thể diễn tả bằng thái độ, cử chỉ tế nhị. Khuyến khích sử dụng ngôn ngữ không lời. 
Tránh hỏi nhiều câu hỏi liên tục. Hỏi với giọng phỏng vấn, điều tra, đoán ý, đón ý , 
quy trách, ngắt lời thân chủ. 
 Có những thân chủ e ngại đến mức không thích nói ra điều gì, nhưng muốn 
tư vấn viên cảm thông chia sẻ; Tư vấn viên phải từ tốn, từng bước trao đổi những 
chuyện xa đề, nhưng không thể quên mục tiêu trao đổi thông tin về chủ đề đang 
tìm hiểu. Đôi khi thái độ im lặng ở một giai đoạn nào đó trong câu chuyện cũng là 
một thông tin cần phân tích, không nóng vội. 
 Một điểm quan trọng nữa là tư vấn viên phải giỏi kỹ năng giải mã ngôn ngữ 
không lời của thân chủ. Sự hiểu lầm sẽ đưa đến nhiều điều tệ hại dây chuyền. Buổi 
tư vấn sẽ hoàn toàn thất bại, không thể tái lập mối quan hệ, Học sinh là thân chủ 
nhỏ thường không dùng lời để diễn tả hết những đều muốn nói, buộc tư vấn viên 
giải mã, từ đó có thể khai mở được nhiều khía cạnh. 
75 
 Thông thường thân chủ trong nhà trường, khó mà thổ lộ điều gì riêng tư với 
tư vấn viên, mặc dù hoàn cảnh cho phép bảo đảm bí mật giữa 2 người tư vấn viên 
và thân chủ, do đó sự im lặng, diễn t3 ngôn ngữ bằng ánh mắt, nụ cười của tư vấn 
viên có tính quyết định trong quá trình khái mở giai đoạn truyền thông , tương tác 
cung cấp thông tin hiệu quả. 
 Hỏi câu hướng nội bày cảm tưởng, 
Khách tự tìm chân lý đúng , sai. 
 Kỹ năng truyên thông giúp cung cấp những thông tin thích đáng, cần thiết, 
rõ ràng, đầy đủ. Tư vấn viên không nói quá về tầm quan trọng, tránh cung cấp 
thông tin một chiều, giải thích phù hợp văn hóa, trung thực thật thà. 
Trong truyền thông thông tin được truyền đạt 2 chiều, truyền thông trong 
tư vấn là sự hầu chuyện tương tác giữa tư vấn viên và thân chủ. Tư vấn viên phải 
thông sáng, tĩnh táo, nắm bắt kịp thời ý nghĩa của thông tin qua câu chuyện kể 
hoặc trả lời của thân chủ sẽ nhìn thấy vấn đề kịp thời tìm hiểu qua các động thái 
vấn đàm tương tác phù hợp. 
Đến giai đoạn, một số góc cạnh của vấn đề sắp bộc lộ. Để đi sâu hơn nữa vừa 
có tính xá tín vừa có tính chữa trị, tư vấn viên phải có kỹ năng đặt câu hỏi hướng 
nội để thân chủ nói thêm về cảm xúc, về diễn biến bên trong thân chủ, và tự thân 
chủ có thể thấy đúng,sai không cần phân tích. Như vậy , những kỹ năng truyền 
thông trong tư vấn tâm lý có thể tóm lược như sau: 
Biết khích lệ và cũng biết chờ, 
Lắng nghe tích cực: biết phản hồi 
phản hồi đơn giản hay tóm lược, 
Phản hồi soi sáng rõ ràng hơn 
Ngôn ngữ không lời , cần lưu ý. 
Thông tin cần thiết, phải tập trung. 
Hỏi câu hướng nội bày cảm tưởng, 
Khách tự tìm chân lý đúng , sai. 
76 
4. KỸ NĂNG KHƠI DẬY : KHÁM PHÁ VẤN ĐỀ 
Kỹ năng khơi dậy là kỹ năng Khuyến khích thân chủ tự khám phá vấn đề. 
Trong đó, trước hết là (1) Kỹ năng quan sát hệ thống; (2) Kỹ năng phân tích, 
chia nhỏ vấn đề, đề nghị thân chủ đề xuất giải pháp khả thi; (3) Kỹ năng khám 
phá vấn đề qua đề nghị thân chủ đóng vai, đối đầu trong êm dịu của vở kịch; (4) 
Kỹ năng tổng hợp, gợi ý kết luận. 
 Quan sát hệ thống : (Đánh giá) mức trầm trọng. 
Quan sát hệ thống là nhìn từ gốc rễ, căn cơ của vấn đề, xem xét sự phát triển, 
mối quan hệ, tương quan trong hệ thống, môi trường ảnh hưởng, nhằm đánh giá 
mức độ trầm trọng, mức độ rối nhiểu nội tâm và hy vọng chữa trị. 
Một buổi nói chuyện chưa nắm hết, sẽ hẹn lần thứ hai, lần thứ ba là chuyên 
gia tâm lý, tư vấn viên phải kiên trì, thông sáng, tĩnh táo trước vấn đề khó khăn 
của thân chủ. Những gì tư vấn viên thu nhận được có thể là hậu quả của một sự 
kiện có nguyên nhân sâu xa, chưa chẩn đoán được; vì đó chỉ là triệu chứng của một 
căn bệnh trầm kha, từ vô thức theo học thuyết Freud, từ nguyện vọng, từ những 
nhu cầu cơ bản bị ẩn ức, bị thế lực, ảnh hưởng những hành vi thô bạo trong gia 
đình, hay tai vạ mang đến từ cộng đồng, từ thiên nhiên, hình thành nếp sống nếp 
suy nghĩ lệch lạc… 
Ai cũng có nhu cầu muốn vươn lên sau khi thỏa mãn những nhu cầu sống 
còn, họ muốn được bảo vệ, họ muốn được tôn trọng, họ muốn được thăng hoa như 
Maslow mô tả. Còn ở thân chủ của mình thì sao? Họ bị ức chế đến mức độ nào? 
Nên nhớ, con người khi bị dồn đến chân tường thì không lường được phản ứng của 
họ. Lương tâm, đạo lý, những thứ “siêu tôi”, có ảnh hưởng gì vào lúc này đối với 
thân chủ mình… 
Ví dụ trong tư vấn hành vi với trẻ nghiện ma tuý, hoạt động mãi dâm... tư 
vấn viên phải đánh gía, qua quan sát có hệ thống, và nắm chắc tiền sử: Số lần, 
thời gian, mức độ trầm trọng của hành vi và các đặc điểm định lượng khác thuộc 
về tâm tính, tư duy, ảnh hưởng gia đình, các ẩn ức, những vấn đề ức chế có thể thấy 
được…. Từ đó làm cơ sở hoạch định. Đề nghị các biện pháp can thiệp phù hợp cho 
từng em khác nhau. 
77 
 Thành phần chia nhỏ hỏi từng câu. 
Tiến hành thảo luận ý thân chủ. Liệt kê lợi hại chọn đi đâu. 
Có lúc phải chia vấn đề ra từng phần nhỏ, xác định rõ các biện pháp nào 
can thiệp vào môi trường, biện pháp nào can thiệp vào bản chất hành vi. Trong 
thực tế, tư vấn viên còn sử dụng cách tác động thân chủ bằng phương thức đưa ra 
“người mẫu”, là người cùng hoàn cảnh đã trải qua, thắng vượt được. Đây là giải 
pháp phân tích đồng dạng, gây hứng thú cho thân chủ. Tư vấn viên có thể đi xa 
hơn việc phê bình người mẫu, góp ý của thân chủ về người mẫu, bằng cách cho 
thân chủ đóng phim, đóng kịch nếu họ là người mẫu thì trong tình huống này phải 
hành xử ra sao? Thế nào là hợp lý? làm thế nào để thực hiện những điều hợp lý 
đó…? 
Hãy lấy một tờ giấy, hay vẽ lên mặt đất một đường thẳng chia đôi không gian 
; một bên liệt kê những điều lợi , một bên liệt kê những điều bất lợi có hại bản thân 
và cộng đồng. Theo câu chuyện, cùng với thân chủ đồng ý một số ván đề cần thảo 
luận, vấn đề 1, vấn đề 2, vấn đề 3…toàn là những vấn đề khó giải quyết. Từ đó tiếp 
tục thảo luận cùng chia vấn đề ra nhỏ hơn: vấn đề 1.1, 1.2, 1.3…. vấn đề 2.1, 2.2, 
2.3…, vấn đề 3.1,3.2,3.3, … 
Mỗi vấn đề nhỏ đều được phân chia lợi hại và được liệt kê ra để cùng suy 
nghĩ thảo luận. Cuối cùng thân chủ sẽ tự thấy rõ vấn đề hơn qua thảo luận thay vì 
cho lời khuyên, răn dạy thân chủ, nhất là với thân chủ nhỏ tuổi. 
 Khơi dây đối đầu trong êm dịu 
Dùng tình huống giả đóng vai thay. 
Khơi dậy là kỹ thuật đặt câu hỏi giúp thân chủ tìm hiểu nguyên nhân, cung 
cấp thông tin phù hợp, trên cơ sở đó gợi hướng hành động. Tránh cho lời khuyên. 
Chỉ cho lời khuyên khi vấn đề đã rõ một cách tế nhị, bằng một câu hỏi gợi lời 
khuyên. 
Nếu tiếp xúc với nhau mà cố ý làm đẹp lòng nhau để trục lợi. Hay chịu đựng 
làm mặt vui vẻ bên ngoài thì không phải là cảm thông. Cảm thông không phải là 
săn đón dồn dập, lời lẽ nương chiều. Cảm thông là những gì tốt đẹp khi tư vấn viên 
mở lời chào và thăm hỏi đúng lúc trong ánh mắt chứa chan tình cảm phát xuất từ 
đáy lòng. 
Có lúc phải sử dụng kỹ thuật “đối đầu trong êm dịu” , hoặc sử dụng kỹ 
thuật sắm vai “giả tình huống”” tình huống giả đóng vai thay” . Để thân chủ 
trãi nghiệm như thật, từ cảm xúc, suy nghĩ của vai diễn, đề nghị suy nghĩ, chọn lựa. 
78 
Để khơi dậy, tư vấn viên có khi cần phải gieo lo lắng cho thân chủ về những 
hậu quả do quan điểm, quyết định sai lầm của thân chủ gây ra, vào lúc phù hợp với 
thân chủ. 
Ví dụ : 
Một nữ sinh lân la phòng tư vấn, thường ngày đến làm quen tư vấn viên, Một 
hôm em hạ giọng, xin nói chuyện riêng, một người bạn nhờ hỏi trường hợp em bị 
mang thai thì xử lý ra sao? 
Qua câu chuyện, tư vấn viên không hỏi về nguyên cớ mang thai, mà trả lời 
theo kiểu cung cấp thông tin bình thường, tôn trọng mẹ và con, khi nào được hủy 
thai, khi nào không?... Nhưng qua đó, tư vấn viên phát hiện, nữ sinh không nói thật 
tình trạng khó xử của cô ta. 
Qua phương thức yêu cầu cô ta đóng vai người mẹ mang thai, cô ta đi từ lúng 
túng này qua sự lúng túng khác chứng tỏ rất xúc động bên trong. Tư vấn viên còn 
gieo nhiều lo lắng nếu phải mang thai. 
Cuối cùng cô ta phải thú thật là cô bị bạn trai lừa, quan hệ tình dục trong 
một chuyến đi chơi xa, và cô thấy lỗi của mình, chuyện quan hệ xảy ra quá lâu nên 
không đủ bằng chứng để tố cáo hành vi người con trai, trong khi chàng ta là người 
xa lạ không biết chàng ta đã cao chạy xa bay nơi đâu. 
Trước mắt tư vấn viên giúp cô ta kiểm tra mình có mang thai không ? Rất 
may theo cô ta kể quan hệ đã hơn một tháng rồi mà kinh nguyệt vẫn bình thường. 
Sau đó, sự hỗ trợ của tư vấn viên giúp cô ta giảm bớt tình trạng khủng hoảng , từng 
bước quyết nhiều vấn đề liên quan qua các lần tư vấn tiếp theo. 
79 
5. KỸ NĂNG TỔNG HỢP: 
 Hỏi thêm với nhiều câu gợi ý, 
 tìm ra giải pháp vấn đề hay 
Nguyên tắc là không gợi ý khi thân chủ chưa thấy vấn đề. 
Phải qua giai đoạn khơi dậy, vấn đề đã hé lộ, gợi ý lúc này chỉ là xác tín vấn đề 
làm cho thân chủ thấy rõ hơn, có lúc vấn đề được lật qua, lật lại nhiều lần nhiều góc 
cạnh, mới thấy được sự toàn diện, rõ ràng của vấn đề. 
Giải pháp tìm ra không phải do tư vấn viên gợi ý, khi thân chủ chưa đề nghị 
một số biện pháp theo ý thân chủ trong tình thế như vậy. Thân chủ là người hiểu 
rõ về họ nhất. Họ là chuyên gia giải quyết vấn đề chứ không phải là tư vấn viên. Tư 
vấn viên với học thuyết tư vấn tâm lý của Rogers (1950), lại càng phải thận trọng 
để cho thân chủ tự giải quyết với sự giúp đỡ mà không làm thay , thực hiện tốt chủ 
thuyết thân chủ trọng tâm. 
Những thao tác này thể hiện khi tư vấn viên đã vận trí tuệ, tổng hợp từ những 
thông tin ban đầu, thông tin trong truyền thông, quá trình tương tác vấn đàm với 
tất cả kỹ năng và kinh nghiệm của người làm tư vấn được rèn luyện. Kỹ năng tổng 
hợp giúp tư vấn viên định hướng câu chuyện mà không bó buộc thân chủ phải 
nhìn nhận vấn đề quá sớm, không thúc bách một kết lua65nvo65i vả sau khi nhận 
được một số thông tin chưa đầy đủ. Không tổng hợp với những định kiến của tư 
vấn viên. 
Có những tư vấn viên ngay từ đầu , họ đã linh cảm một kết luận của vấn đề, 
hình thành định kiến để từ đó mọi tư tưởng hành vi và quá trình khai thác thông 
tin qua giai đoạn truyền thông, khơi dậy đều hướng đến mục tiêu khai thác đã 
định. Sự thiếu dè dặt, coi thường sự lắng nghe, chia sẻ trong quá trình tư vấn cho 
thấy họ chỉ là người tư vấn cung cấp sự hiểu biết, cung cấp thông tin bình thường 
chứ không phải là nhà tâm lý, đang chia sẻ, chẩn đoán tâm bệnh của thân chủ. 
Khi tiến hành hỏi thêm với nhiều câu gợi ý, không phải là gợi ý với chủ quan 
của tư vấn viên, mà qua phân tích và khám phá của hoạt dộng truyền thông và 
khơi dậy, đã cho thấy vấn đề cần được xem xét ở một số mặt hàm ẩn, những ẩn ức 
chưa được giải tỏa, thân chủ chưa nhìn nhận với tất cả tấm lòng, và sự hiểu biết của 
mình. 
Vấn đề còn lại là phải giúp thân chủ liệt kê các giải pháp,phân tích từng giải 
pháp tính khả thi và các nguồn lực hỗ trợ có liên quan. Giải pháp được chọn là giải 
80 
pháp phù hợp với sở trường, nguyện vọng và hoàn cảnh thực hiện, kiểm tra. Không 
có giải pháp nào là toàn hảo , nhưng quyết tâm của thân chủ là yếu tố chủ yếu và 
sự kiểm tra, hướng dẫn của tư vấn viên là cần thiết. 
 Kỹ năng hỗ trợ quyết định: Hợp đồng kế hoạch mới và kết thúc 
Hầu hết cá tư vấn viên đều cho rằng kỹ năng này là không cần thiết phải đào 
tạo. Tuy vậy, chính những khó khăn mà nhiều thân chủ không vượt qua được là 
sau khi chọn con đường điều chỉnh, con đường đã sáng tỏ nhưng thiếu cân nhắc 
bàn luận của tư vấn viên, đã làm kết quả tư vấn không tòan vẹn. Hầu hết thân chủ 
có thể lờ mờ thấy được mục tiêu cuối đường hầm của cuộc sống, nhưng thiếu động 
viên, thiếu sự săn sóc, nhất là thiếu hiểu biết trong xây dựng một kế hoạch khả thi 
và không ai giúp đỡ huy động các nguồn lực từ bản thân, từ gia đình, cộng đồng, 
hội đoàn, động viên ý chí, sức mạnh tập thể cuả nhóm, của cộng đồng, từ bước 
kiểm tra, điều chỉnh, tăng tốc, đúng tiến độ 
 Để đạt 3 điều kiện tạo mối tương giao lành mạnh với thân chủ, tư vấn viên 
phải tự đặt cho mình một kế hoạch tự rèn luyện tâm linh kiểm tra tâm tánh và các 
biểu hiệu khí chất không phù hợp trong giao tiếp. Tư vấn viên tư vấn trẻ em còn 
phải không ngừng nâng cao kiến thức về các vấn đề trẻ em: 
 Trong quá trình tư vấn đòi hỏi tư vấn viên phải: 
 Tự hiểu mình 
 Nắm những mối quan hệ của thân chủ 
 Có kiến thức khá đầy đủ về lãnh vực tư vấn: Tâm lý, pháp luật , y khoa … 
 Hiểu tận tường về tâm lý lứa tuổi và quyền trẻ em 
 Hiểu biết các vấn đề xã hội thực tiển khác 
 Nói chung, một tư vấn viên là người có chuyên môn trong một lãnh vực 
khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn; được hấp thụ một nền văn hóa khá toàn 
diện về mặt kiến thức xã hội, có lòng tự trọng, yêu thích tự nguyện trong công tác; 
dễ hòa nhập với thân chủ nhièu loại hạng, trình độ khác nhau, gíup tư vấn viên 
thành công trong các trường hợp tư vấn. 
 Các kỹ năng theo trình tự của quá trình tư vấn tâm lý , đúc kết lại như sau: 
81 
TƯ VẤN TÁC NGHIỆP 
 Giao tiếp 
Bắc cầu giới thiệu lời hoà âm. 
Hợp hướng cảm tình hơn hợp lý, 
Vấn đàm kết cấu câu hỏi mở. 
Tận tình khích lệ giải thjch thêm 
 Truyền thông 
Biết khích lệ và cũng biết chờ, 
Lắng nghe tích cực: biết phản hôi 
phản hồi đơn giản hay tóm lược, 
Phản hồi soi sáng rõ ràng hơn 
Ngôn ngữ không lời, cần lưu ý. 
Thông tin cần thiết, phải tập trung. 
Hỏi câu hướng nội bày cảm tưởng, 
Khách tự tìm chân lý đúng , sai. 
 Khơi dậy 
Quan sát hệ thống : mức trầm trọng. 
Thành phần chia nhỏ hỏi từng câu. 
Tiến hành thảo luận ý thân chủ. 
Liệt kê lợi hại chon đi đâu. 
Khơi dây đối đầu trong êm dịu 
Dùng tình huống giả đóng vai thay. 
Hỏi thêm với nhiều câu gợi ý, 
tìm ra giải pháp vấn đề hay 
 Quyết định 
Làm rõ lại kết quả cần thảo luận 
Bổ sung chờ hay huỷ bỏ luôn, 
Hoặc cần giới thiệu chuyên gia khác 
Hẹn kỳ sau phù hợp chuyên môn hơn 
 Kết thúc 
Nếu nhất trí khách cùng bàn bạc, 
Phòng khi hoàn cảnh có đổi thay. 
Nên chăng huy động nguồn hỗ trợ, 
Cùng hợp đồng kế hoạch tương lai. 
Lê Vĩnh Nhượng 99 
82 
NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý 
 TƯ VẤN HỌC SINH TUỔI TRẺ EM 
1. Để trẻ thoả mái, nói điều trẻ thích. 
2. Đừng ghi chép làm chi gây phiền nhiểu. 
3. Hãy đợi đấy, cho tâm bình, lửa nguội, 
4. Trong chuyện vãn, ta dò tìm ý nguyện. 
5. Khích lệ trẻ, khơi dậy mọi nguồn lực, 
 Ẩn tàng trong tâm thức trẻ không hay 
6. " Bằng thủ thuật đối đầu trong êm dịu 
 Tạo tình huống giả, đóng vai thay " 
7. Phát hiện trong từng mảy may tâm ý 
 Có điều chi khổ nảo thử phân chia 
8. Rồi cùng nhất trí, đề ra giải pháp 
 Hợp đồng thực hiện thế nào khả thi 
9. Ta hỗ trợ và giao quyền tự quyết 
 Không hứa hẹn nhưng an lòng thân chủ 
10. Giúp cho người lấy lại một niềm tin 
 Trong chia tay lưu luyến một thân tình ./. 
 Vĩnh Nhượng99 
83 
CHƯƠNG 05 
HƯỚNG NGHIỆP VÀ KỸ NĂNG KHÁC 
1. HƯỚNG DẪN GIÁO DỤC 
 Hướng dẫn (Consulting, Educational Guidance) 
 Việc theo dõi, hướng dẫn giúp học sinh trong học tập và rèn luyện nhân cách 
là nhiệm vụ của nhà trường có từ xưa, nhưng khi hướng dẫn giáo dục được xem là 
một ngành học được phát triển, và thực hiện rộng rãi xảy ra ở Hoa Kỳ. John 
Dewey khẳng định mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện cá nhân và phẩm chất 
duy nhất của rèn luyện nhân cách đòi hỏi cá nhân phải được hướng dẫn thích ứng 
với sự phát triển. Đồng thời với sự phát triển vũ bảo của nền công nghiệp đầu thế 
kỷ 20, buộc chương trình trung học phải xét lại trước nhu cầu nhân lực chuyên 
môn kỹ thuật của nền công nghiệp phát triển, đặt nặng vấn đề giáo dục hướng 
nghiệp, dạy nghề để phân luồng. Vào thời đó, hướng dẫn học sinh không chỉ là 
hướng dẫn học tập, hướng dẫn đạo đức, ứng xử mà chủ yếu là hướng dẫn chọn 
nghề, định hướng nghề nghiệp tương lai gọi chung là hướng nghiệp. 
 Hướng nghiệp ( Vocational and Educatonal Guidance, Career Guidance) 
 Hoạt động hướng nghiệp có mục đích định hướng nghề nghiệp, trở thành 
một bộ phận được cơ cấu trong trường học, để giúp học sinh hiểu tiềm năng, khả 
năng nghề nghiệp, những nghề không nên làm (chống chỉ định), và giúp học sinh 
quyết định chọn nghề 
 . Hướng nghiệp theo từ điển Tiếng Việt (1997, trg.458), ”Hướng nghiệp là : 
(1) thi hành những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng 
khiếu, năng lực, thể lực) theo ngành và loại lao động; 
(2) Giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề”.Định nghĩa trên: 
- Cho ta hiểu khái quát chung về hướng nghiệp đối với toàn xã hội như phân luồng 
học sinh phổ thông, phân công lao động theo ngành nghề, vùng kinh tế; 
- Giúp học sinh thanh niên chọn ngành nghề phù hợp. 
 Theo Mạc Văn Trang (1993): Hướng nghiệp là quá trình tuyên truyền, hướng 
dẫn cho đối tượng hiểu biết về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động và đặc điểm 
của cá nhân; trên cơ sở đó họ có thể lựa chọn học nghề, tìm việc làm phù hợp với 
nguyện vọng, hoàn cảnh, năng lực của cá nhân. Định nghĩa trên dựa vào lý luận của 
K.K. Platonop thể hiện trong sơ đồ “Tam giác hướng nghiệp” 
84 
Hình 1.1: Tam giác hướng nghiệp K.K. Platonop 
 Như vậy, quá trình hướng nghiệp cần giúp cho học sinh, thanh niên nói chung, 
hiểu biết những vấn đề cơ bản sau: 
- Trong xã hội (rộng ra là thế giới) đang có những nghề gì; mỗi loại nghề nghiệp có 
những đặc điểm gì, yêu cầu gì ...?; 
- Trong thị trường lao động (địa phương, toàn quốc, các nước) đang và sẽ cần những 
nghề gì, loại lao động nào ...?; 
- Đặc điểm của cá nhân mình (hứng thú, năng lực, sức khoẻ, hoàn cảnh...) nên chon 
học nghề nào là phù hợp? 
 Tư vấn hướng nghiệp 
 Tư vấn hướng nghiệp (TVHN) là hoạt động hướng nghiệp dành cho từng cá 
nhân học sinh trong nhà trường, một bộ phận của tư vấn học đường. khác với 
hướng nghiệp nặng vè công tác tuyên tuyên truyền nghề nghiệp, nói về đặc điểm 
nghề nghiệp và tình hình nghề nghiệp, việc làm hiện tại và tương lai. Tư vấn 
hướng nghiệp là một loại tư vấn tâm lý nhưng nặng về phần cung ứng thông tin 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_trinh_boi_duong_nghiep_vu_tu_van_hoc_duong_lhnb_p1_5343.pdf giao_trinh_boi_duong_nghiep_vu_tu_van_hoc_duong_lhnb_p1_5343.pdf