Vùng biển nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, là nơi giao lưu của các 
loại hình thời tiết, trong đó có thời kỳdo một hệthống thời tiết khống chế, có 
thời kỳxen kẽhoạt động của một sốhệthống. Đểhiểu rõ thêm sựhoạt động của 
các hệthống thời tiết, chúng ta cần nắm một sốkhái niệm mang tính chất về đặc 
điểm cơcấu, cấu trúc của chúng
              
                                            
                                
            
 
            
                 58 trang
58 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình khí tượng hải dương học: Chương 2- Các hiện tượng và hệ thống thời tiết biển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 42 
Chương 2 
CÁC HIỆN TƯỢNG VÀ HỆ THỐNG 
THỜI TIẾT BIỂN VIỆT NAM 
 Vùng biển nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, là nơi giao lưu của các 
loại hình thời tiết, trong đó có thời kỳ do một hệ thống thời tiết khống chế, có 
thời kỳ xen kẽ hoạt động của một số hệ thống. Để hiểu rõ thêm sự hoạt động của 
các hệ thống thời tiết, chúng ta cần nắm một số khái niệm mang tính chất về đặc 
điểm cơ cấu, cấu trúc của chúng. 
2.1. Khối khí và hoàn lưu khí quyển 
2.1.1. Khối khí 
a, Khái niệm về khối khí 
 Khối không khí hay còn gọi là khí đoàn và những bộ phận không khí cỡ 
lớn chiếm cứ trên một phạm vi rộng của lục địa hay đại dương. Đặc trưng nổi 
bật của khối khí là có sự phân bố các yếu tố khí tượng, điển hình là nhiệt độ và 
độ ẩm tương đối đồng nhất theo phương ngang. Từ đó, hai yếu tố này được coi 
như chỉ tiêu để xác định đặc tính thời tiết của các khối khí. 
 Nguồn gốc hình thành các khối khí có hai nguyên nhân chính là tính chất 
“mặt đệm” và bức xạ mặt trời. Nơi phát sinh các khối khí gọi là “ổ phát sinh”. 
b, Phân loại khối khí 
 Người ta thường phân loại các khối khí theo các cơ sở như sau: 
 - Phân loại theo khu vực địa lý hình thành các khối khí. Theo cách phân 
loại này bao gồm các khối khí như: khối khí cực đới, khối khí ôn đới, khối khí 
nhiệt đới, khối khí xích đạo. 
 Ngoài ra, có thể kết hợp với tính chất mặt đệm mà điển hình là bề mặt lục 
địa và biển để phân loại khối khí. Ví du: khối khí nhiệt đới biển, khối khí ôn đới 
lục địa.v.v. 
 - Phân loại theo tính chất các yếu tố khí tượng mà điển hình là nhiệt độ và 
độ ẩm: khối không khí nóng, khối không khí lạnh, khối không khí nóng ẩm, khối 
không khí nóng khô, khối không khí lạnh khô… 
 Như vậy, nếu ta xem xét một khối không khí được phân loại theo phương 
pháp địa lý thì tương ứng ta có thể hiểu được nó qua việc phân loại theo nhiệt độ và 
độ ẩm. Chẳng hạn, khối không khí nhiệt đới hải dương sẽ là khối không khí nóng 
ẩm, khối không khí cực đới là khối không khí lạnh khô… 
 Do tính chất qui mô lớn và được đặc thù bởi chế độ thời tiết của mình nên 
khối khí có tính khống chế và thịnh hành thời tiết ở các khu vực mà nó bao trùm. 
 Tuy nhiên, các khối khí không phải ở cố định trên “quê hương” sinh ra nó 
mà trong quá trình vật lý khí quyển, chúng di chuyển qua các vùng địa lý khác 
nhau, tức là sẽ thay đổi mặt đệm và sự tiếp nhận bức xạ mặt trời. Vì vậy, sẽ có 
 43
sự biến đổi về tính chất các yếu tố khí tượng (điển hình là nhiệt độ và độ ẩm) 
“người ta gọi sự biến đổi ấy là sự biến tính của khối khí”. 
 Một ví dụ điển hình của sự biến tính là vào thời gian cuối của chế độ gió 
mùa Đông Bắc (tháng 1 đến tháng 3), khối không khí lạnh khô lục địa Xibia trước 
khi đến nước ta đã tràn qua vùng biển Đông Nam Trung Quốc tiếp nhận lượng ẩm 
cao đã tạo nên thời tiết lạnh ẩm, mưa phùn ở miền Bắc Việt Nam. 
2.1.2. Hoàn lưu khí quyển 
 Khái niệm “hoàn lưu” để chỉ sự chuyển động của không khí trong khí 
quyển có tính chất tuần hoàn. 
 Như vậy, hoàn lưu khí quyển là tập hợp các dạng chuyển động quy mô 
lớn trong phạm vi khí quyển tầng thấp, nhờ có sự trao đổi không khí theo theo 
hướng thẳng đứng và nằm ngang. 
 Các nhà khí tượng đã xây dựng mô hình hoàn lưu khí quyển theo các 
dạng sau: 
a, Mô hình hoàn lưu giả thiết 
 Đây là mô hình đơn giản hóa về hoàn lưu khí quyển. Giả thiết rằng, bề 
mặt trái đất có tính chất mặt đệm đồng nhất, không có sự tác động của lực làm 
lệch hướng. Từ đó, dưới tác dụng của bức xạ mặt trời sẽ hình thành sự phân bố 
các trung tâm nhiệt – áp đơn giản: tại vùng xích đạo nhiệt độ cao, tồn tại dải áp 
thấp còn ở vùng cực, nhiệt độ thấp và tồn tại áp cao. 
 Không khí trên bề mặt sẽ chuyển động từ hai cực về xích đạo nóng lên và 
bốc lên cao rồi tuần hoàn trở lại đi xuống vùng cực hình thành hoàn lưu khép 
kín dạng “kinh hướng”. Hình 2.1 dưới đây mô tả dạng hoàn lưu giả thiết. 
Hình 2.1. Mô hình hoàn lưu giả thiết 
 44 
b, Mô hình hoàn lưu khí quyển thực tế 
 Trong thực tế, bề mặt trái đất có cấu trúc mặt đệm rất đa dạng mà điển 
hình là sự phân bố hải - lục, đồng thời với sự tự quay của trái đất sẽ phát sinh ra 
lực làm lệch hướng (lực Koriolis) tác động lên sự chuyển động của không khí 
làm lệch hướng hoàn lưu. Từ đó, cùng với sự phân bố bức xạ mặt trời, sự khác 
biệt của tính chất mặt đệm nên sự phân bố các trung tâm nhiệt áp trên toàn cầu 
bị cắt xẻ và thay đổi theo mùa. Điển hình của sự khác biệt này là hình thế khí áp 
ở Bắc bán cầu, nơi có sự phân bố rõ nét về lục địa và đại dương. 
 Ví dụ cụ thể của sự phân bố đó như sau: 
 - Trên cực Bắc hình thành cao áp lạnh. 
 - Vùng vĩ độ 600 hình thành một áp thấp. 
 - Vùng ngoại chí tuyến (vĩ độ 30 – 350) hình thành vùng cao áp đại dương 
ngoại chí tuyến. 
 - Vùng áp thấp xích đạo. 
 Với sự phân bố như trên, ta có thể mô tả một sơ đồ hoàn lưu thực tế trên bề 
mặt trái đất trong hầu hết thời gian trong năm (hình 2.2). Theo sơ đồ phân bố, ta thấy 
áp cao ở cực, dải áp thấp phụ ở vĩ độ 600, dải áp cao cận nhiệt và áp thấp xích đạo. 
Hình 2.2. Sơ đồ hoàn lưu khí quyển thực 
 Theo sơ đồ này, trên bề mặt sẽ có dạng hoàn lưu như sau: 
 Từ cực về vùng vĩ độ 600N có dòng hướng Đông Bắc (NE), từ vùng vĩ độ 
350N đến 600N có hướng Tây Nam (SW), từ vĩ độ 350N đến xích đạo có hướng 
Đông Bắc (NE). 
 45
 Trên cao, ở từng khu vực, hoàn lưu có hướng ngược lại, theo quy tắc vùng 
áp cao dòng khí đi xuống, vùng áp thấp không khí chuyển động lên cao. Tóm 
lại, mô hình hoàn lưu khí quyển thực (áp dụng điển hình cho Bắc bán cầu) sẽ có 
dạng như sau: 
 - Trên bề mặt từ cực đến vĩ độ 600N hoàn lưu có hướng Đông Bắc (NE), 
trên cao có hướng ngược lại (SW). 
 - Từ vĩ độ 300 – 350N trên bề mặt hoàn lưu có hướng Tây Nam (lệch Tây), 
trên cao có hướng ngược lại (đáng chú ý là ranh giới giữa vùng này và vùng chí 
tuyến xuất hiện vùng gió Tây với vận tốc hàng trăm km/h “vĩ độ ngựa” ở độ cao 
≈ 20km). 
 - Từ vĩ độ 300 – 350N đến xích đạo trên bề mặt hoàn lưu có hướng NE, 
trên cao có hướng SW (thiên về Tây như đã nói ở trên). 
 Thực ra, nếu ta gọi hoàn lưu khí quyển thực thì có thể nói rất đa dạng, thay 
đổi liên tục theo thời gian, không gian. Để có thể mô tả chính xác một dạng hoàn 
lưu cụ thể, các nhà khí tượng phải dựa trên chuỗi số liệu quan trắc bề mặt và cao 
không thể hiện trên các bản đồ thời tiết phục vụ cho công tác dự báo thời tiết. 
2.2. Front khí quyển (Phờ rông) 
2.2.1. Khái niệm về front khí quyển 
a, Sự hình thành và tan front 
 Front (F) là thuật ngữ để chỉ một vùng có sự tranh chấp.Trong khí tượng, 
khái niệm front khí quyển để xác định “một vùng khí quyển hẹp nằm giữa hai 
khối khí đang tranh chấp nhau mà sự tranh chấp đó được đặc trưng bởi sự khác 
biệt về các yếu tố khí tượng” (điển hình là nhiệt độ không khí). Vì lẽ đó, trên 
bản đồ thời tiết, để xác định đường front, người ta cần tìm khu vực mà trong đó 
có sự chênh lệch nhiệt độ không khí theo chiều ngang lớn, thông thường có thể 
chênh lệch nhiệt độ theo phương ngang từ 10-150C, (kèm theo đó là các yếu tố 
cần quan tâm như khí áp, hướng gió). 
 Như vậy, sự tạo thành front thường liên quan đến quá trình dịch chuyển 
của các khối khí lại gần nhau, từ đó tạo nên vùng khí quyển hẹp giáp ranh có độ 
chênh lệch nhiệt độ lớn và sự khác biệt ấy dẫn đến tính tranh chấp của hai hệ 
thống thời tiết khác nhau. 
 Front tồn tại trong khí quyển dưới dạng một mặt nghiêng, góc nghiêng 
của mặt front trên bề mặt nằm ngang rất nhỏ (<10), độ cao của vùng front có thể 
lan đến đỉnh tầng đối lưu nhưng thường tính chất front biểu hiện rõ nét ở các lớp 
khí quyển dưới 5 km. Bề rộng của vùng front không có kích thước rõ rệt, từ vài 
trăm km và đôi khi chỉ trong phạm vi vài km. Giao tuyến của vùng front trên bề 
mặt tại thành đường front. 
 46 
 Do mật độ không khí khác nhau và được hình thành trong quá trình động 
nên front tồn tại khí quyển sao cho không khí lạnh ở dưới, không khí nóng ở 
trên mặt front. 
 Sự tan front gắn liền với sự biến tính của khối khí, vì do biến tính, các yếu 
tố khí tượng dần dần được cân bằng làm mất tính đối kháng. 
b, Phân loại và ký hiệu front 
 Việc phân loại front có thể dựa trên các cơ sở: 
* Theo khu vực địa lý tồn tại của front, người ta chia thành các loại: 
- F cực là F ngăn cách giữa khối khí cực đới và khối khí ôn đới; 
- F ôn đới là F ngăn cách giữa khối khí ôn đới và khối khí nhiệt đới; 
- F nhiệt đới là F ngăn cách giữa khối khí nhiệt đới và khối khí xích đạo. 
* Phân loại dựa theo sự di chuyển của các khối khí đồng thời front cũng di 
chuyển, theo cơ sở này front được phân loại thành hai loại cơ bản: 
- Front nóng là front được hình thành khi khối không khí nóng di chuyển 
gần lại khối không khí lạnh. 
- Front lạnh là front được tạo thành khi có khối không khí lạnh di chuyển 
đến vùng không khí nóng. Trong front lạnh, nếu không khí lạnh di chuyển chậm 
gọi là front lạnh loại 1, nếu không khí lạnh di chuyển nhanh gọi là front lạnh loại 2. 
Ký hiệu front trên bản đồ thời tiết thường được vẽ bằng đường chì đen 
đậm nét với các răng cưa nhọn nếu là front lạnh và các răng cưa hình bán nguyệt 
với front nóng. Ký hiệu hai loại front được mô tả ở hình 2.3. 
 Front lạnh Front nóng 
Hình 2.3. Ký hiệu front trên bản đồ thời tiết 
2.2.2. Đặc điểm thời tiết trong khu vực front 
 Như đã nói ở trên, vùng front tuy là đới khí quyển hẹp, song là vùng tranh 
chấp đột biến giữa các khối không khí có các hệ thống thời tiết khác biệt nhau 
nên nhìn chung, thời tiết ở vùng front là xấu và có lúc trở nên nguy hiểm. 
a, Thời tiết trong front nóng 
 Khối không khí nóng di chuyển về khối không khí lạnh sẽ trượt lên trên 
không khí lạnh và hình thành một vùng tiếp giáp gọi là front nóng. 
 Không khí nóng chuyển động trượt trên bề mặt nghiêng đi lên cao sẽ hình 
thành hệ mây front nóng kéo dài dọc theo front thành một dải ước chừng từ 700 
– 900 km, thường bao gồm các mây dạng tầng: Ti (Ci), Ti tầng (Cs), Trung tầng 
(As). Thấp dần xuống vùng gần đường front là các đám mây Vũ tầng (Ns) gây 
 47
mưa và hệ mây này kết thúc khi front di qua. Hình 2.4 mô tả sự tạo thành hệ 
mây front nóng. 
Kế theo hệ mây, khi front nóng đi qua có thể xuất hiện gió giật mạnh và 
đổi hướng, nhiệt độ không khí đột ngột tăng, áp giảm. Thời gian xảy ra sự thay 
đổi thường vài chục phút, khi front đi qua, thời tiết chuyển sang chế độ của thời 
tiết trong khối không khí nóng. 
b, Thời tiết trong front lạnh loại 1 
 Ngược lại với front nóng, khi khối không khí lạnh tràn đến phía khối 
không khí nóng sẽ hình thành một front lạnh. Khối không khí lạnh đi tới sẽ đẩy 
khối không khí nóng trượt trên mặt front đi lên và trôi về phía sau. Do ảnh 
hưởng của ma sát, lớp không khí lạnh ở sát bề mặt chuyển động chậm lại nên 
mặt front ở đây dốc hơn. Vì vậy, ngay tại đây có một bộ phận không khí nóng bị 
đẩy lên cao theo chiều thẳng đứng hình thành mây Vũ tích (Cb), tiếp theo không 
khí nóng tiếp tục trượt trên mặt front lạnh đi lên hình thành các loại mây Vũ 
tầng (Ns), mây Trung tầng (As), Ti tầng (Cs) song thứ tự xuất hiện sẽ ngược lại 
so với front nóng. Hệ mây front lạnh loại 1 được mô tả ở hình 2.5. 
 Front lạnh đi qua cũng gây ra gió giật mạnh, vùng có mây vũ tích gây 
mưa rào, giông và có thể có lốc xoáy, nhiệt độ hạ đột ngột, áp tăng lên, sau đó 
thời tiết hoàn toàn do khối không khí lạnh chiếm cứ khống chế. 
Hình 2.4. Hệ mây trong front nóng 
c, Thời tiết trong front lạnh loại 2 
 Khi sự chênh lệch lớn về nhiệt độ và khí áp giữa khối không khí lạnh đi 
tới và khối không khí nóng địa phương, không khí lạnh di chuyển nhanh tới đẩy 
không khí nóng trước front chuyển động hầu như thẳng đứng lên cao đột ngột, 
không khí nóng phía sau trườn xuống thay thế. Vì vậy, trước front lạnh khoảng 
50 – 100 km xuất hiện vùng hạ áp và mây Vũ tích (Cb) gây giông, mưa rào. Khi 
front lạnh đi qua có mây Tầng tích (Sc), mây Tích (Cu), Trung tích (Ac) và có 
 48 
thể có mây Vũ tích nếu xuất hiện các front lạnh phụ, sau đó mây cao dần và trời 
trong sáng (hình 2.6). 
Như vậy, thời tiết trong front tuy phạm vi hẹp và thời gian xảy ra ngắn, 
song là sự thay thế giữa hai hệ thống khác biệt nhau nên thường xảy ra đột ngột 
và xấu nên cần phải theo dõi đề phòng. 
Hình 2.5. Hệ mây front lạnh loại 1 
Hình 2.6. Hệ mây front lạnh loại 2 
 Ở Việt Nam, tính chất thời tiết front thường biểu hiện rõ là front lạnh vì 
về mùa gió Đông Bắc, không khí lạnh tràn về, đi trước nó là front lạnh. Các đợt 
không khí lạnh vào cuối mùa (tháng 3,4) thường có tính chất front lạnh loại 2 
nên rất nguy hiểm. Vì vậy, cần chú ý đề phòng hiện tượng giông, tố, lốc, vòi 
rồng có thể xảy ra trên biển khi gió mùa Đông Bắc hoạt động. 
2.3. Dải hội tụ nhiệt đới 
2.3.1. Khái niệm và sự hình thành dải hội tụ nhiệt đới 
Không khí lạnh 
Không khí nóng 
 49
 Dải hội tụ nhiệt đới là một đới hội tụ gió, hình thành ở vùng biển nhiệt đới 
trong vùng bất liên tục của đới gió áp thấp xích đạo. Điều đáng chú ý là ở vùng 
hội tụ gió là sự gặp gỡ của hai đới gió thuộc hai khối khí có nguồn gốc nóng ẩm. 
Vì vậy, xét về tính chất thì vùng hội tụ nhiệt đới khác front. 
 Ở vùng biển nước ta, dải hội tụ nhiệt đới là nơi gặp gỡ của gió mùa Tây 
Nam có nguồn gốc ở vùng biển Nam bán cầu và gió Đông Bắc từ áp cao phó 
nhiệt đới ở trung tâm Thái Bình Dương thổi xuống. 
 Dải hội tụ hình thành trên vùng biển Việt Nam trải dài trên tuyến Tây Tây 
Bắc – Đông Đông Nam vắt qua biển Đông. Cấu trúc thẳng đứng của dải hội tụ 
nhiệt đới thể hiện qua dòng thăng phát triển mạnh cả về hai phía của dải (Hình 2.7). 
Hình 2.7. Cấu trúc theo phương ngang và thẳng đứng của dải HTNĐ 
2.3.2. Đặc điểm hoạt động của dải hội tụ ở vùng biển Việt Nam 
 Vào đầu mùa hè, khi đới gió Tây Nam vượt qua xích đạo lên Bắc bán cầu, 
đồng thời áp cao phó nhiệt đới cũng phát triển mạnh bành trướng xuống phía Nam 
sẽ hình thành vùng hội tụ gió. Sự di chuyển của dải hội tụ cơ bản phụ thuộc vào vị 
trí của áp cao phó nhiệt đới và sự tăng cường của gió Tây Nam. 
 Vị trí trung bình của dải hội tụ đi qua vịnh Thái Lan vào tháng 5, sang 
tháng 6 đi qua vùng vĩ độ 100N – 120N (Nam Trung Bộ). Sang tháng 7, vị trí dải 
hội tụ trải dài từ đồng bằng Bắc Bộ vắt qua đảo Hải Nam. Tới tháng 8, 9, vị trí 
cao nhất của dải hội tụ đi qua Bắc vĩ tuyến 200N. Từ cuối tháng 9 dải lùi xuống 
phía Nam và tới tháng 10, 11 hoạt động ở vùng vĩ độ 90 ÷ 100N sau đó dải lùi 
xuống hoạt động ở Nam bán cầu. 
 Như vậy, là một vùng hội tụ gió hoạt động theo sự tăng cường của hai đới 
gió cơ bản của hai bán cầu nên theo thời gian, dải sẽ có cường độ hoạt động 
khác nhau. Đồng thời trong suốt thời gian hoạt động, dải sẽ tác động đến các 
 50 
khu vực theo thời kỳ hoạt động của nó. 
 Thời tiết trong dải hội tụ nhiệt đới phổ biến gồm các hiện tượng: mưa và 
giông trong đới hội tụ, mưa không đều (“sụt sùi mưa ngâu” hoặc mưa dầm) do 
dải hội tụ tăng cường tạo nên vùng hội tụ mạnh có thể tạo thành các xoáy thấp 
nhiệt đới hoặc phát triển thành bão. 
2.4. Chế độ gió mùa 
 Với vị trí địa lý của nước ta, một chế độ thời tiết khá điển hình là sự hoạt 
động của gió mùa. Đây là một chế độ thời tiết quy mô lớn hoạt động trong một 
không gian rộng và thời gian kéo dài, tác động lớn đến chế độ thời tiết và khí 
hậu ở vùng biển Việt Nam. 
2.4.1. Chế độ gió mùa Đông Bắc 
 Về cuối Thu đầu Đông, ở vùng lục địa phía Bắc (khu vực Xibia – Cộng 
hòa liên bang Nga) hình thành áp cao lạnh. Với sự chênh lệch khí áp từ vùng 
phía Bắc xuống phía Nam tạo nên hoàn lưu gió Đông Bắc ảnh hưởng trực tiếp 
đến vùng biển nước ta từ cuối tháng 9 đến tháng 4 năm sau. 
 Gió Đông Bắc hoạt động trên vùng biển suốt từ Bắc xuống Nam, nhưng 
rõ nét nhất là từ Bắc biển Đông tới vùng vĩ độ 160N. Vùng ven bờ cấp 4 – 5, 
ngoài khơi cấp 6, cấp 7. Trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 1, gió Đông Bắc 
hoạt động mạnh có thể tới cấp 8 hoặc trên cấp 8, biển động mạnh. 
 Gió Đông Bắc hoạt động thành từng đợt kéo dài vài ba ngày, trung bình 
trong tháng có khoảng 4 đợt không khí lạnh tràn về. Vào thời kỳ hoạt động 
mạnh, gió Đông Bắc có thể kéo dài 5 đến 7 ngày. 
 Điều đáng chú ý là trước gió mùa Đông Bắc thường có front lạnh hoạt 
động, gây ra thời tiết xấu, đặc biệt là các đợt gió hoạt động đầu và cuối mùa 
(tháng 9, 10 và tháng 4) phải đề phòng thời tiết nguy hiểm có thể xảy ra do front 
lạnh mang tính chất loại 2 gây ra. 
2.4.2. Chế độ gió mùa Tây Nam 
 Ngược với cơ chế gió mùa Đông Bắc là cơ chế gió Tây Nam. Vào đầu 
mùa hè, ở Bắc bán cầu có sự chênh lệch khí áp với Nam bán cầu, từ đó không 
khí từ phía Nam vượt qua xích đạo lên Bắc bán cầu lệch hướng sang phải tạo 
thành gió Tây Nam. Do ảnh hưởng của địa hình nên từng khu vực gió Tây Nam 
lệch sang Tây hoặc Nam. Từ tháng 5, tháng 6 gió Tây Nam hoạt động từ Nam 
biển Đông lan dần lên Bắc biển Đông và đến đầu tháng 8 bao trùm hầu hết các 
vùng biển Đông. 
 Cường độ gió Tây Nam có yếu hơn gió Đông Bắc. Ngoài khơi có thể có 
gió cấp 6, cấp 7. Do nguồn gốc gió Tây Nam từ vùng biển phía Nam xích đạo 
thổi lên nên có nhiệt độ cao, giàu độ ẩm. Vì vậy, mùa gió Tây Nam thường kèm 
theo mùa mưa và sự tăng nhiệt độ không khí. Cũng do ảnh hưởng của địa hình 
 51
núi cao phía biên giới Việt Nam – Lào – CamPuChia khi gió mùa Tây Nam hoạt 
động thường gây ra hiện tượng “Phơn” - gió khô, nóng ở Tây Nguyên, Nam 
Trung bộ -Trung bộ và Thanh - Nghệ – Tĩnh (gió Lào). 
 Khác với gió mùa Đông Bắc, gió mùa Tây Nam thường bị gián đoạn bởi 
các hiện tượng thời tiết như gió Đông, Đông Nam từ áp cao phó nhiệt đới (Thái 
Bình Dương) hoạt động xen kẽ trong tháng 4, tháng 5 hoặc thời tiết trong áp 
thấp nhiệt đới, bão lấn át sự thịnh hành của gió Tây Nam. 
2.5. Các hiện tượng thời tiết quy mô nhỏ 
2.5.1. Gió đất - Gió biển 
 Gió đất, gió biển (hiện tượng Brizơ) là chế độ gió hoạt động ở vùng ven 
biển (hay hồ lớn) luân phiên nhau thổi theo chu trình ngày đêm. 
a, Gió biển 
 Là chế độ gió từ biển thổi vào đất liền. Ban ngày, do tính chất hấp thụ 
nhiệt của mặt biển và đất liền khác nhau dẫn đến nhiệt độ không khí trên biển 
thấp hơn trên bờ, hình thành vùng áp thấp trên bờ và áp cao trên biển. Không khí 
từ biển thổi vào bờ trên bề mặt tạo thành gió biển. Trên cao, luồng không khí 
chuyển động từ bờ ra biển tạo thành hoàn lưu khép kín (hình 2.8). 
 Gió biển thường hoạt động từ khoảng 9 – 10 giờ sáng đến khoảng 17 – 18 
giờ chiều vào những ngày trời quang và có thể đạt tới cấp 3 cấp 4. 
b, Gió đất 
 Đêm về, khi bức xạ mặt trời trực tiếp đi tới bề mặt không còn, bề mặt đất 
liền bị mất nhiệt nhanh dẫn đến lớp không khí sát bề mặt bị lạnh đi, nhiệt độ hạ 
thấp tạo thành vùng áp cao. Trong khi đó, trên biển do tính chất giữ nhiệt lâu của 
nước nên nhiệt độ trong biển cao, hình thành một áp thấp. Không khí từ đất liền 
thổi ra biển trên bề mặt tạo thành gió đất (hình 2.9). 
Hình 2.8. Gió biển Hình 2.9. Gió đất 
 Gió đất thường hoạt động vào những ngày đẹp trời, trong khoảng thời 
gian từ nửa đêm về sáng. 
 Gió đất và gió biển không chỉ có tác dụng điều hòa khí hậu địa phương 
mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của tàu thuyền khi cập rời bến. Vì vậy, khi 
Ban ngày Ban đêm 
 52 
điều động tàu cập rời cảng trong điều kiện có gió đất, gió biển cần tính toán sức 
gió và hướng gió để có biện pháp điều động thích hợp, bảo đảm an toàn cho tàu. 
2.5.2. Một số hiện tượng thời tiết nguy hiểm mang tính chất địa phương 
a,Giông 
 Về bản chất, giông là hiện tượng phóng điện trong khí quyển. Sự phóng 
điện này liên quan đến sự hình thành các điện trường trong các đám mây giông 
(Cb), điện trường cảm ứng giữa các đám mây và giữa mây với bề mặt trái đất. Tia 
lửa điện được phóng ra trong các đám mây hoặc giữa các đám mây gần nhau ta gọi 
là Chớp, giữa mây với các vật thể trên bề mặt trái đất gọi là Sét. Trong quá trình tia 
lửa điện với điện áp hàng ngàn vôn phóng ra trong không khí làm cho không khí 
nóng lên đột ngột gây ra sự giãn nở và phát ra tiếng nổ, ta gọi là Sấm, Sét. 
 Vì giông được sinh ra do sự phát triển mạnh của các đám mây Vũ tích (Cb) 
nên kèm theo hiện tượng phóng tia lửa điện là gió xoáy giật mạnh có thể tới cấp 6,7, 
mưa rào và có thể có mưa đá. Cơn giông hình thành và di chuyển gắn với sự di 
chuyển của đám mây giông với tốc độ trung bình khoảng 40 km/h. Vì vậy, trên biển 
khi phát hiện đám mây giông cần khẩn trương chuẩn bị cho tàu cơ động tránh giông. 
 Mây giông (mây Vũ tích – Cb) được hình thành do đối lưu của không khí phát 
triển mạnh. Như trong phần (1.3) đã nói, mây Cb có thể được hình thành do đối lưu 
nhiệt hoặc đối lưu động lực. Vì vậy, vào những ngày hè oi bức, cần đề phòng giông 
nhiệt và trong thời gian hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới hay trước gió mùa Đông 
Bắc là lúc có đối lưu phát triển mạnh, hình thành mây Vũ tích (Cb). 
b, Tố (đường tố) 
 Tố là hiện tượng gió mạnh đột ngột với sức gió trên dưới 100 m/s hình 
thành ở dưới các đám mây Vũ tích phát triển khi có đối lưu và loạn lưu ở phần 
dưới các đám mây Cb bay thấp. 
 Trong trường hợp không khí lạnh tràn vào vùng không khí nóng ẩm và 
đẩy không khí nóng ẩm lên cao một cách đột ngột tạo thành các đám mây vũ 
tích đen đặc, chân mây tối sẫm, tơi tả, hình dạng thay đổi nhanh báo hiệu một 
vùng xoáy có trục nằm ngang đang hình thành một cơn tố. Phạm vi tác động của 
tố thường gây ra một vệt hẹp chừng vài trăm mét song có thể kéo dài hàng chục, 
thậm chí hàng trăm km, tốc độ di chuyển của tố cũng tới hàng trăm km/h. Do 
vậy, việc dự đoán và phòng tránh tố là vấn đề rất khó khăn. 
c, Lốc 
 Lốc là hiện tượng gió xoáy cực mạnh, xuất hiện khi có những khu vực bị 
đốt nóng cục bộ tạo nên dòng thăng (đối lưu) phát triển mạnh, khí áp giảm đột 
ngột, không khí từ các vùng xung quanh chuyển động xoáy có trục thẳng đứng. 
Lốc cũng thường xuất hiện ở dưới các đám mây giông khi đối lưu phát triển 
 53
mạnh, sự chênh lệch nhiệt độ theo chiều đứng lớn gây ra áp giảm đột ngột tạo 
nên những cơn gió xoáy giật, có thể phá hoại các công trình xây dựng xây dựng, 
làm lật chìm tàu thuyền. 
d, Vòi Rồng 
Khác với lốc, vòi rồng là hiện tượng một phần mây dạng xoắn trôn ốc lan 
tỏa từ các đám mây vũ tích trông có dạng hình phiễu như vòi voi xuống mặt đất, 
mặt biển. 
 Nguyên nhân phát sinh ra vòi 
rồng là khi một khối không khí nóng 
ẩm di chuyển dưới một khối không 
khí lạnh khô hình thành nên những 
xoáy khí có trục thẳng đứng lan từ 
mây tới bề mặt đất, mặt biển. Với vận 
tốc xoáy cực lớn lên tới 200-300 m/s 
tạo nên một hiện tượng “ống rỗng” 
tương tự nguyên lý của máy bơm ly 
tâm làm cho khí áp của vùng trong 
ống tụt 400mb, thậm chí 200mb 
(trong khi đó bên ngoài ống, khí áp 
trung bình 1010mb). Sự chênh lệch 
khí áp đó tạo nên một sức hút rất 
mạnh, có thể nâng các vật nặng hàng 
chục tấn rời đi xa, hút các vật thể nhẹ 
lên mây và di chuyển đi các vùng 
khác làm rơi xuống trong các trận 
“mưa cá”, “mưa tiền”. 
Sức gió xoáy giật cực mạnh 
cùng với sức nâng hút lớn của vòi rồng 
đã gây ra tác hại rất nghiêm trọng dù kích thước vòi rồng chỉ cỡ mấy chục đến 
vài trăm mét và thời gian hoạt động trong vài chục phút. 
 Vòi rồng thường xuất hiện ở phía Tây Nam của các đám mây giông khi 
mây phát triển mạnh, chân mây tơi tả, luôn thò xuống các vệt như dạng móng 
vuốt (mống của vòi rồng), các mống này dần lan xuống thấp tạo nên các vòi 
hình phiễu hút nước lên mây (hình 2.10). 
 Giông, tố, lốc, vòi rồng là những hiện tượng thời tiết nguy hiểm qui mô 
nhỏ, hình thành bất chợt và khó dự báo trước. Tuy vậy, các hiện tượng trên đều 
liên quan đến sự hình thành và phát triển của mây giông (mây Vũ tích – Cb). Vì 
Hình 2.10. Mô tả đám mây mang vòi 
rồng trên biển 
 54 
vậy, để phòng tránh thiệt hại cần tổ chức quan sát sự phát triển và di chuyển của 
các đám mây giông bảo đảm an toàn cho người và phương tiện khi hoạt động 
trên biển. 
2.6. Bão nhiệt đới 
2.6.1. Những khái niệm cơ bản về bão nhiệt đới 
a, Một số thuật ngữ về bão 
 Theo Quyết định 581/ TTg ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1997 của Thủ 
tướng Chính phủ ban hành “Quy chế bão, lũ” có các thuật ngữ được định nghĩa 
như sau: 
 1. Xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ): là vùng gió xoáy, đường kính có thể tới 
hàng trăm ki lô mét, hình thành trên biển nhiệt đới, gió thổi xoáy vào trung tâm 
theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, áp suất khí quyển thấp nhất ở tâm, có 
mưa, đôi khi kèm theo giông, lốc, tố. 
 2. Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ): là một vùng XTNĐ có sức gió mạnh nhất 
từ cấp 6 đến cấp 7 và có thể có gió giật. 
 3. Bão: là một XTNĐ, có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở lên và gió giật mạnh. 
Về Bão được phân chia thành các loại : 
 a. Bão thường là XTNĐ có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 đến cấp 9 và có 
thể có gió giật. 
 b. Bão mạnh là XTNĐ có sức gió từ cấp 10 đến cấp 11 và có thể có gió giật. 
 c. Bão rất mạnh là XTNĐ có sức gió mạnh nhất từ cấp 12 trở lên và có thể 
có gió giật. 
 Thuật ngữ về “Bão” ở trên thế giới cũng có nhiều tên gọi khác nhau. Ở 
vùng Đại Tây Dương, người ta gọi là “Uragan” hay “Hurricane”. Ở Ấn Độ 
Dương gọi là “Cyclone”, ở châu Úc thì gọi là “Villy – Villy” còn ở khu vực 
Thái Bình Dương
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 khi_tuong_hai_duong_hoc_1__0866.pdf khi_tuong_hai_duong_hoc_1__0866.pdf