Giáo trình luật hành chính so sánh

Trong xu hướng hội nhập và mở cửa, luật so sánh nói chung và luật hành chính

so sánh nói riêng giúp chúng ta hiểu được văn hóa pháp lý, các trường phái pháp luật,

pháp luật của các quốc gia khác để so sánh đối chiếu với văn hóa pháp lý, trường phái

khoa học luật học và pháp luật trong nước nhằm để bổ sung cho những nhận thức khoa

học và nhằm hoàn thiện pháp luật trong nước phù hợp với xu hướng phát triển của

pháp luật thế giới.

Luật so sánh là cầu nối giữa các nền văn minh pháp luật của các quốc gia trên

thế giới để tạo điều kiện cho pháp luật các quốc gia "xích lại gần nhau" tránh những xu

hướng dị biệt, bảo thủ trong nhận thức luận và trong thực tiễn pháp lý. Sử dụng những

quan điểm khoa học, tập quán pháp luật thế giơi.

pdf45 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 4046 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình luật hành chính so sánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao trình độ của các công chức . Nó khởi thảo những phương pháp đánh giá hằng năm công việc của công chức và kiểm tra việc tiến hành những đánh giá nh thế bởi các bộ và các nha. Năm 1988 hầu nh 97% các công chức bang đều phải trải qua sự đánh giá những khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của họ. Sự đánh giá được thực hiện bởi những người lãnh đạo cơ quan và những hội đồng đặc biệt của các cơ quan đó. Nếu đánh giá là tích cực, thì được thưởng. Phần thưởng được trả một lần trong 1 năm (không bị khấu trừ) nhưng có không quá nửa số lượng công chức thuộc loại này. * Công chức thuộc hệ thống bảo đảm xã hội vì bệnh tật có quyền về hu theo lứa tuổi (từ 50 tuổi) và vì thương tật. Họ có thể thông qua các công đoàn của mình kí kết các hợp đồng tập thể với bộ máy hành chính , tham gia vào việc thông qua quyết định động chạm tới lợi ích của họ. Nhưng quyền của họ về bãi công bị hạn chế. Các quyền chính trị của công chức cũng bị hạnchế bởi vì một cách chính thức là họ cần phải trung lập về chính trị. Một chế độ u đãi đặc biệt của chế độ phục vụ được quy định đối với những người lãnh đạo lâu năm. Họ có khoảng 11 ngàn không được phân chia thành các hạng. Việc cử họ giữ các chức vụ được thực hiện trên nền tảng sự đánh giá lao động của người lãnh đạo. Có những u đãi trong việc nâng cao trình độ, nghỉ ngơi, hu trí. 1.2.3. Chế độ công vụ Anh * Cơ sở của chế độ công vụ hiện đại của Vương quốc Anh đã được đạt nền móng năm 1850 - 1870. Những kì thi công khai đã bắt đầu được tiến hành thành lập một Uỷ ban độc lập đối với các cơ quan hành chính khác là Uỷ ban công vụ dân sự (UBCVDS) với tư cách là một cơ quan lãnh đạo của hệ thống tuyển chọn công chức . *Cơ sở của công vụ dân sự là nguyên tắc tách hoạt động quản lý khỏi chính trị đ những người có chức vụ được chia làm 2 nhóm: - Những nhà chính trị có thể bị thay đổi (họ vào khoảng 100 người - thủ tướng, các Bộ trưởng , các bí th nhà nước và một số người khác, những người này bị thay đổi trong trường hợp Chính phủ từ chức) - Những nhà hành chính không bị thay đổi (những công chức chuyên nghiệp không bị thay đổi không từ chức mặc dù Chính phủ bị thay đổi) * Các công chức dân sự là các cán bộ các Bộ và các nha ở trung ơng với t cách dân sự và được trả lương từ các nguồn được nghị viện quy định. Ngoài những nhà hoạt động chính trị thì các thẩm phán, các công chức quân sự, công chức cảnh sát, công chức của các cơ quan tự quản địa phương và các nghiệp đoàn công cộng, giáo viên và 34 các cán bộ của nha quốc gia về sức khỏe cũng không thuộc loại này. các công chức dân sự cùng với tất cả các loại này sẽ bao hàm bởi một khái niệm rộng hơn - "các công chức viên chức của lĩnh vực công cộng". * Lĩnh vực phục vụ dân sự được điều chỉnh về cơ bản không phải là các đạo luật mà là các mệnh lệnh của vua trong hội đồng, các thông tri của Bộ tài chính và các Bộ khác, bởi vì lĩnh vực phục vụ này được coi là đặc quyền của vua. * Vấn đề phục vụ dân sự trước năm 1981 thuộc thẩm quyền của Bộ công vụ dân sự. Từ năm 1987 bộ này đã bị giải thể việc quản lý hoạt động công vụ dân sự được thực hiện bởi Bộ tài chính và Cục quản lý của Bộ trưởng công vụ dân sự và từ năm 1968 thì theo truyền thống Thủ tướng kiêm chức Bộ trưởng đó. * Công vụ dân sự được chia thành công vụ đối nội và công vụ ngoại giao. Người đứng đầu của công vụ đối nội luôn là thư ký của nội các(người thường được nổ nhiệm là công tước- người giữ con dấu). Bí thư thứ nhất(Bộ trưởng) Ngoại giao và về các công việc hợp tác lãnh đạo công vụ ngoại giao. * Tất cả các công chức dân sự được chia thành các loại và các nhóm trong những loại và nhóm thì các chức vụ được chia ra thành bậc(các cấp). Nhóm những người lãnh đạo chính trị cao cấp và hành chính là to nhất và bao gồm những bí th thường xuyên của các bộ, các cấp phó của chúng và các trợ lý của các cấp phó (tức là của thứ trưởng). Những người lãnh đạo này giữ các chức vụ và hoạt động trong các chức vụ đó theo một trình tự đặc biệt. Những công chức còn lại được chia ra thành vài loại. Loại thứ nhất " loại chung" bao gồm các nhóm: hành chính (những người thi hành cao cấp, những người thực tập sinh - hành chính , những bí th - trợ lý, Vnarki(đó là những người cán bộ công chức lâu năm giữ các việc giấy tờ hành chính và soạn thảo các báo cáo hoặc là những chức vụ của nhà thờ giáo hội ở Anh, Pháp cũ) và những trợ lý của họ và những người có chức vụ khác). Những nhà kinh tế, những người thống kê, những công chức của nha thông tin và các nhóm khác. Loại thứ hai là các cán bộ khoa học. Loại thứ ba là những chuyên gia kỹ thuật (các kiến trúc s, các kỹ sư và những người khác). Cũng có những loại công chức là cán bộ pháp lý và nghiên cứu. Loại thấp nhất là bao gồm đội ngũ nhân viên phục vụ - ký thuật; những người đánh máy và ghi tốc ký, những th ký riêng, những văn th, những người làm nhiệm vụ dọn dẹp và những tì phái * Việc tuyển mộ những công chức cao cấp (từ cấp thứ 7 đến cấp 1) và một số những ứng cử viên khác được thực hiện bởi UBCVDS. Để làm điều này thì người ta tiến hành những kỳ thi viết có tính chất tranh đua và những cuộc đàm thoại. Thời gian gần đây thì người ta coi trọng việc đàm thoại miệng, đặc biệt trong việc tuyển mộ những chức vụ công chức cao cấp. Các kỳ thi và các cuộc đàm thoại để tuyển mộ những người vào những chức vụ này được tiến hành thường theo chương trình của các trường đại học như Cambrit. Cách này cung cấp một bộ phận cơ bản các tầng lớp quan chức. * Những người trải qua các kỳ thi nhận được từ Uỷ ban một giấy chứng nhận công chức , giấy chứng nhận này chứng nhận quyền được giữ một chức vụ thích hợp. Họ sẽ trở thành công chức suốt đời (trước khi đạt được lứa tuổi về hưu). Họ được đảm bảo về việc làm. Những trường hợp thải hồi hoặc từ chức trước thời hạn vô cùng hiếm hoi. * Việc bổ nhiệm các công chức giữ chức vụ của nhóm cao nhất được thực hiện bởi Bộ trưởng công vụ dân sự, còn bổ nhiệm giữ các chức vụ khác - những Bộ trưởng tương ứng. Từ năm 1991 những bộ này đã tự mình thực hiện việc tuyển mộ các công chức của những cấp thấp dới sự kiểm tra của Uỷ ban công vụ dân sự. 35 * Luật trả lương cho lao động của công chức được thực hiện với sự cân nhắc mức lương ở trong các tổ chức tư. Phạm vị mức lương phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh, điều kiện loại, nhóm, cấp, thâm niên, giá trị và tính phức tạp của công việc. Để thực hiện mục đích trả lương thì những điều này được phân loại một cách chi tiết. * Việc thăng tiến trong chế độ phục vụ và việc thuyên chuyển từ Bộ này sang Bộ khác, từ nhóm này sang nhóm khác rất là khó khăn. * Các công chức thuộc loại được bảo hiểm nhà nước bắt buộc và có quyền về hưu khi già (thường là từ 60 tuổi và khi bị thương tật). Song họ không bắt buộc phải đóng góp vào quỹ hưu trí. Quyền về hưu trong phạm vi 1/3 của mức lương xuất hiện ở họ khi có thâm niên công tác 10 năm và đạt được lứa tuổi tối thiểu để mà từ chức. * Công chức có thể bị thải hồi trước thời hạn theo phán xét của cơ quan hành chính và quyết định của cơ quan có thể bị khiếu nại vào Hội đồng phá án của nha công vụ dân sự và sau đó vào Tòa án . * Chế độ phục vụ dân sự đã đa ra một số hạn chế đối với tự do của các công chức . ví dụ: - Các công chức nhóm cao cấp bị cấm tham gia những hoạt động chính trị chung quốc gia , tham gia vào trong hoạt động chính trị địa phương chỉ có thể với sự cho phép của lãnh đạo bộ tương ứng của nha. Sự cho phép nh thế trong hoạt động chính trị cũng đòi hỏi đối với các công chức dân sự của các nhóm thấp nhất. Họ buộc phải thể hiện sự trung thực và những kìm giữ tong tất cả những điều liên quan đến các cơ quan của họ. Các cán bộ của các xí nghiệp thương mại - công nghiệp công cộng được tham gia hoạt động chính trị mà không bị cản trở 1 - Đối với các công chức của các Bộ và các nha cũng tồn tại những hạn chế về việc tham gia vào các hoạt động tài chính. Ví dụ, họ không thể tham gia vào những hợp đồng về mua bán cổ phiếu, các khu đất và các tài sản khác vì những hợp đồng đó có thể dẫn đến sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích công vụ . Khi hết thời hạn phục vụ thì họ có thể tham gia một số hoạt động nhưng chỉ được thực hiện khi có sự cho phép đặc biệt. - Từ năm 1946 các công chức được phép có các công đoàn của mình. Hiện nay họ không được phép bãi công. Để điều chỉnh các tranh chấp giữa các công chức và cơ quan hành chính về vấn đề tiền lương lao động, đảm bảo hu trí, giờ làm việc, thăng tiến theo công vụ, những mức phạt kỷ luật, các điều kiện lao động một cơ quan đặc biệt chuyên môn - hội đồng quốc gia UICNI được thành lập, hội đồng này bao gồm từ những người lãnh đạo của các bộ và đại diện của các công đoàn công chức . Nếu hội đồng không giải quyết được cuộc tranh chấp thì tranh chấp được đa vào toà hành chính - Tòa án trọng tại tranh chấp về các vụ việc công vụ dân sự. * Khác với các công chức dân sự, đối với các công chức của các cơ quan tự quản địa phương người ta ký kết các hợp đồng cho thuê và nếu không tuân thủ các hợp đồng đó có thể bị đa ra xét xử ở Tòa án. Việc thuê một số cán bộ được thực hiện chỉ với sự đồng ý của các Bộ trưởng tương ứng. Trong tất cả các cơ quan quản lý địa phương chỉ tồn tại một thang bậc duy nhất của tiền lương công chức và các điều kiện lao động như nhau, những điều kiện đó được khởi thảo bởi các hội đồng quốc gia và tỉnh hợp nhất. Ở trên các hợp đồng đó thì các cơ quan hành chính và các công chức đại diện trên cơ sở bình đảng nh nhau. Các quyền hưu trí của các công chức của bộ máy quản lý địa phương hoàn toàn được điều chỉnh bởi pháp luật 1.2.4. Chế độ công vụ của cộng hoà Pháp. 1 Xem ; Bôi xôp va V.V.Bôi xỗp va L.V. Sự trung lập về chính trị của các công chức nhà nước ở Anh// nhà nước và pháp luật 1992 số 9 tr 117-124 36 *Quan niệm về công chức ở Pháp Nước Pháp là nước có nền hành chính truyền thống, "công chức " ở nước này được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước có tư cách pháp nhân công quyền, trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, nhân viên hành chính trong các đơn vị quân đội và trong Quốc hội. Công chức ở Pháp được chia thành công chức dân sự của hệ thống hành chính nhà nước và công chức của các cộng đồng lãnh thổ địa phương và công chức của các pháp nhân công trong đó có cả bác sỹ, giáo viên. Loại thứ hai là công chức quân sự, những người làm việc ở Tòa án, Nghị viện. Công chức loại thứ nhất được điều chỉnh bởi Quy chế về công chức nhà nước và công chức của cộng đồng địa phương, được tạo bởi bốn đạo Luật ban hành từ năm 1983 đến năm 1986. Quy chế này không áp dụng với công chức quân sự và công chức thuộc Nghị viện, Tòa án và những người làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thương mại- công nghiệp. Tuỳ thuộc vào các ngành nghề khác nhau, ngoài những quy định chung, có những Quy chế riêng cho công chức của từng ngành nghề khác nhau với những ưu đãi khác nhau. Công chức nhà nước được chia thành 4 loại: công chức loại A, B, C và công chức loại Đ. Công chức loại A là công chức là công chức cao cấp đảm nhiệm trọng trách định hướng cho hoạt động quản lý, bảo đảm sự phù hợp của hoạt động hành chính với chính sách của Chính phủ, xây dựng các dự án luật và các dừ thảo quyết định của Chính phủ. Công chức loại B là công chức là công chức tổ chức thực hiện các định hướng quản lý, thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chuyên môn, thường xuyên đòi hỏi các kỹ năng hành chính. Công chức loại C là công chức chuyên môn, thừa hành các công vụ, công chức loại Đ gồm các nhân viên của bộ máy giúp việc trong các cơ quan hành chính. - Ngoài ra còn áp dụng chế độ hàm cấp, ngạch bậc đối với công chức. Một công dân nếu được tuyển dụng vào hoạt động công vụ thì được bổ nhiệm vào một ngạch bậc nhất định phụ thuộc vào kết quả của các kỳ thi hoặc những hình thức kiểm tra khác về các khả năng của họ. * Cơ quan quản lý công chức là: Cục ngân sách thuộc Bộ tài chính thực hiện nhiệm vụ trả lương và phân bổ ngân sách và tổng nha hành chính và công vụ quốc gia(có thể hiểu là Bộ công vụ) , trong mỗi Bộ có Cục cán bộ , Cục đó trực tiếp quản lý bộ máy nhân sự trực thuộc ở trung ương và địa phương thuộc Bộ. *Việc tuyển chọn vào công vụ: ở Pháp tồn tại một hệ thống phức tạp việc tuyển chọn các công chức Nhà nước. Việc tuyển chọn công chức dựa trên nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt dân tộc, sắc tộc, tín ngưỡng, giới tính. Tuy vậy, trên thực tế có những bất bình đẳng rõ rệt, những công chức cao cấp thường được chọn tư tầng lớp tư sản, chỉ có một số ít phụ nữ được chọn giữ chức vụ lãnh đạo. Không tiến hành thi đối với công chức ở hai bậc cao nhất và thấp nhất. Tỉnh trưởng, đại sứ do Chính phủ bổ nhiệm và các nhân viên kỹ thuật thuộc công chức loại C và Đ không qua thi tuyển mà bằng cách kiểm tra, sát hạch. *Trả lương lao động: Lương của công chức bao gồm 3 phần: lương chính, phụ cấp và trợ cấp xã hội. Chế độ lương chính được áp dụng hết sức nghiêm ngặt, chỉ những công việc đã hoàn thành mới được trả lương và chỉ những công việc thuộc nghĩa vụ chức trách của công chức mới được trả lương, về nguyên tắc cơ quan hành không trả lương cho những công việc không thuộc các nghĩa vụ của công chức. Những công chức bị thải hồi hoặc bị đình chỉ công tác không có quyền đòi hỏi phải trả lương ứng với thời gian nghỉ việc 37 đó, chỉ được bồi thường khi cơ quan hành chính có lỗi. Trong trường hợp bãi công các công chức không được nhận lương. Công chức có nghĩa vụ nhận lương để bảo đảm uy tín cho nền công vụ nhà nước. Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ XX do những cải cách tiền lương nên mức lương tối đa và tối thiểu chênh lệch nhau khoảng 5 lần. Các công chức của các ngành kỹ thuật, tài chính có mức lương cao hơn các công chức hành chính, lương của công chức của các cộng đồng địa phương thường thấp hơn các công chức Nhà nước. Giai đoạn đầu mới vào nghề lương của công chức thấp hơn lương của nhân viên các doanh nghiệp Nhà nước và thấp hơn nhiều so với lương của những người làm trong các công ty tư nhân. Nhưng do chế độ nâng bậc lương thường xuyên nên cuối đời phục vụ họ nhận được lớn hơn nhiều so với các đối tượng nói trên, điều này đảm bảo tính ổn định của đội ngũ công chức nhà nước và sự tin tưởng của họ vào tương lai. Ngoài lương còn có: trợ cấp sinh hoạt , trợ cấp cho các thành viên của gia đình, cũng như các khoản phụ cấp khác do luật và các quyết định dưới luật quy định. Các công chức nhà nước có quyền nghỉ phép năm, nghỉ ốm, nghỉ thai sản và nghỉ để chăm sóc con cái. Bên cạnh đó công chức còn được hưởng chế độ bảo trợ xã hội và chế độ hưu trí đặc biệt. Như vậy, các công chức nhà nước được hưởng các chế độ bảo trợ xã hội tốt hơn so với những người làm việc ở khu vực tư. * Việc luân chuyển và thăng tiến trong chế độ công vụ: Về nguyên tắc công chức giữ các chức vụ một cách ổn định, nhưng việc luân chuyển công tác cũng được áp dụng đối với công chức khi cần thiết, có thể là luân chuyển công tác trong nội bộ cơ quan, tổ chức, hoặc khi công chức chuỷên chỗ ở thì xin chuyển nơi công tác. Khi chuyển công tác thì ngạch bậc công chức vẫn được giữ nguyện. Việc thuyên chuyển thường đựơc áp dụng với công chức có thâm niên công tác lâu năm và đối với một số ngành nghề như: giáo dục, quân đội, công an, cảnh sát. Việc thuyên chuyển công tác có thể có sự đồng ý hoặc không đồng ý của công chức. Việc thăng tiến về bặc và ngạch đối với công chức cũng được tiến hành thường xuyên, trên cơ sở những kỳ kiểm tra sát hạch. Có những người không có khả năng vươn lên ngạch trên, suốt đời chỉ ở một ngạch, nhưng bặc thì có thể được thường xuyên tuỳ theo thâm niên công tác. Công chức được nâng ngạch có thể do đã đạt được bằng cấp theo yêu cầu của ngạch, nhưng việc nâng ngạch công chức phải do yêu cầu công vụ. Chế độ biệt phái cũng được áp dụng đối với công chức và theo nguyên tắc bảo lưu việc làm cho công chức. * Trách nhiệm pháp lý đối với công chức Các công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về những hành vi không hợp pháp của mình và có thể thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì hối lộ, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ để trục lợi cá nhân. Công chức có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường vật chất khi gây thiệt hại vật chất cho người khác, cho cơ quan hành chính trong quá trình thực thi công vụ. Nhưng thường chỉ áp dụng khi công chức có lỗi nghiêm trọng. Đối với những người lãnh đạo các cơ quan hành chính, những người quản lý tài chính và những công chức khác đã duyệt các khoản chi không đúng thì có thể bị phạt tiền do Tòa án kỷ luật ngân sách - tài chính quyết định. Trên thực tế , khoản tiền phạt thường không đủ cho các chi phí. Ngoài các biện pháp trách nhiệm pháp lý, công chức còn có thể chịu trách nhiệm kỷ luật với các hình thức: khiển trách, cảnh cáo; đình chỉ việc nâng bặc; tạm đình chỉ công tác trong thời hạn 15 ngày; chuyển vị trí công tác; hạ cấp, tạm đình chỉ chức vụ trong thời hạn từ sáu tháng đến hai năm. 38 Việc kỷ luật công chức được tiến hành theo trình tự thủ tục nhất định, tương tự như ở nước ta. Người bị kỷ luật không đồng ý với quyết định kỷ luật có thể khởi kiện vụ án ra Tòa án. Việc kỷ luật đối với công chức ngành giáo dục được thực hiện theo một trật tự riêng. * Nghĩa vụ công chức: Các công chức phải giành toàn bộ thời gian làm việc cho hoạt động cộng vụ. Công chức không kiêm nhiệm các công việc của cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là các công việc thuộc sở tư. Nhưng đối với giảng viên có thể kiêm nhiệm như kiêm chức danh nghị sỹ Quốc hội. Các công chức có nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, trừ trường hợp mệnh lệnh đó rõ ràng trái pháp luật và có thể gây thiệt hại cho lợi ích chung. Nhưng nếu không có căn cứ để khẳng định mệnh lệnh đó rõ ràng là trái pháp luật và thiệt hại của nó có thể sấy ra thì công chức vẫn phải chấp hành mệnh lệnh nhưng không phải chịu trách nhiệm, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về người lãnh đạo. Theo luật các công chức buộc phải giữ bí mật nghề nghiệp (y tế, thuế, quân sự, các bí mật an ninh quốc gia) và bí mật công vụ (thí dụ, các thông tin về dự án nghiên cứu). Nếu vi phạm quy định về bí mật chuyên môn họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn đối với bí mật công vụ có thể bị truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Công chức có thể bị kỷ luật buộc thôi việc khi vi phạm quy tắc đạo đức. * Các quyền chính trị: Các công chức nhà nước có các quyền về chính trị- xã hội như: tự do tư tưởng và tự do quan điểm; tự do tín ngưỡng, tự do gia nhập các đảng phái chính trị và giữ các chức vụ trong tổ chức chính trị; tự do ứng cử trong các cuộc bầu cử. Không có một số hạn chế đối với những tự do này. theo pháp luật hiện hành thì công chức có nghĩa vụ phải khách quan, trung lập. Những quan điểm của nó và tín ng- ỡng không được cản trở nó tiếp xúc với tất cả các công dân một cách nh nhau, không có quyền giảng dạy môn học của mình một cách phiến diện, coi trọng một dòng t tởng tôn giáo, triết học hoặc là chính trị nào. Các công chức có nghĩa vụ phải biểu lộ sự kiên trì kìm giữ trong các hành động của mình và trong các lời nói để không đem đến thiệt hại cho cơ quan hoặc lãnh đạo của nó, nguyên tắc về làm chỉ của mình đã được hình thành bởi hội đồng nhà nước và sau đó thì được ghi nhận bằng các quyết định pháp luật . những nhà bình luận thì đã có nhiều nghi ngờ đối với nguyên tắc này bởi vì có thể đã được sử dụng để chèn ép những phát biểu có lợi cho phái đối lập. Ngoài những hạn chế được pháp luật cho phép về tự do của công chức thì họ có thể phải chịu sự đè nén bí mật dới dạng ví dụ: xây dựng các cản trở trong việc thăng tiến theo công vụ . * Các quyền xã hội . Các công chức có quyền thành lập các công đoàn, bãi công, tham gia vào quản lý cơ quan đơn vị. Quyền thành lập các công đoàn đã được thừa nhận đối với các nhân viên cán bộ của khu vực tư nhân từ năm 1894. Sau điều này thì các công chức nhà nước bất chấp sự cấm đoán đã bắt đầu thành lập các công đoàn của mình nhưng các công đoàn đó chỉ được công khai vào năm 1946. Chỉ có những ngừơi làm việc phục vụ trong quân đội thì vẫn như cũ không có thể có công đoàn của mình. Các công đoàn của các công chức có thể đa đơn kiện vào các Tòa án: kiện các điều lệ, các quyết định dới luật, các quyết định cá biệt (ví dụ như bổ nhiệm vào một chức vụ có uy tín). Nhưng họ không có thể kiện những hình thức kỷ luật . Các công đoàn cũng có quỳên xem xét các vấn đề cán bộ trong số đó có các vấn đề về tiền lương lao động. Các công chức có thể được biệt phái để thực hiện các nghĩa vụ công đoàn với việc trả lương lao động cho 39 chúng từ quỹ của công đoàn, có kỳ nghỉ trong thời gian học tập công đoàn, tham gia vào thời gian làm việc trong những cuộc họi họp. * Trước những năm 1946 các công chức nhà nước không có quyền bãi công. Tham gia vào cuộc bãi công coi là một lỗi nặng và dẫn đến việc thải hồi từ thì. Hiến pháp 1946 cho phép bãi công nhưng công chức một số loại không thể bãi công: cảnh sát, cán bộ của cơ quan cải tạo, những người hoa tiêu của nghành hàng không. * Tồn tại những hạn chế khác. Cũng như ở trong khu vực tư nhân, không thể thực hiện các cuộc bãi công chính trị. Cũng bị cấm hoặc bị hạn chế những cuộc bãi công trong trường hợp khi cần phải đảm bảo tính liên tục không bị gián đoạn của các dịch vụ thông tin rađio và truyền hình, những tỉnh trưởng, những người đánh máy, những người trực điện thoại ở các cơ quan đó và danh mục những loại công chức bị cấm bãi công được soạn thảo quy định bởi Chính phủ hoặc những người lãnh đạo của các nha. Cũng bị cấm những cuộc bãi công bất ngờ (phải thông báo về chúng trước 5 ngày) khi mỗi ngày bãi công một phần các cán bộ và cơ quan do kết quả đó tê liệt trong quá trình thời gian dài. Trong thời gian chiến tranh Chính phủ có quyền buộc phải thực hiện lao động bắt buộc một loạt loại công chức trong số đó có những người bãi công. Những người vi phạm pháp luật có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. * Sự tham gia của các công chức vào quản lý các đơn vị công sở việc thực hiện trước hết thông qua các Uỷ ban hành chính , các Uỷ ban kỹ thuật và hội đồng cao cấp của công vụ nhà nước . Tất cả điều này là các cơ quan tham vấn song phương hai bên. Chúng bao gồm những thành phần bằng nhau từ những người đại diện của bộ máy nhân viên và cơ quan hành chính . Các Uỷ ban thường giải quyết về cơ bản những biện pháp mang tính chất cá nhan (những cái việc thuyên chuyển có tính chất phục vụ, được nâng chức vụ, kỷ luật) còn các Uỷ ban (loại Commichet) những biện pháp chung về tổ chức các dịch vụ các công sở, hoạt động và các điều lệ của chúng, hội đồng cao cấp - những vấn đề toàn quốc của hoạt động công vụ. Sự tham gia của các công chức vào quản lý được thực hiện cũng bằng con đường khiếu nại những hành vi không hợp lý hoặc là không hợp pháp của lãnh đạo vào các cơ quan hành chính hoặc Tòa án . 1.2.5. Chế độ công vụ ở CHLB Đức. Một trong những dấu hiệu của cơ quan quản lý theo hệ thống pháp luật CHLB Đức là có đội ngũ quan chức và một bộ phận cầu thành của bộ máy Nhà nước . Bộ máy quan chức có những quyền hạn hành chính rộng rãi những chức năng quản lý Nhà nước: " Công chức ở trong sách báo pháp luật hiện đại của CHLB Đức được gọi là người, nằm ở trong các quan hệ Nhà nước - phục vụ trên cơ sở liên hệ giữa sự trung thành với pháp nhân quản lý công và hoàn thành theo sự uỷ thác của pháp nhân đó chức năng pháp luật - công cộng". - Đối với đội ngũ các CHLB Đức cũng như đối với các nước Tây Âu khác có đặc trưng là các nguyên tắc tổ chức cổ xa được tổ chức trên nền tảng của tính trực thuộc theo thứ bậc. Đội ngũ các ở CHLB Đức là một tầng lớp khép kín nằm dới sự kiểm tra của bộ máy hành chính cấp trên một cách thường xuyên về mặt chính trị, nghiệp vụ và pháp lý. Những mưu toan thay đổi tình trạng đang tồn tại những năm gần đây đã không có ảnh hưởng lớn bởi vì truyền thống vẫn rất là mạnh. - Đối với các công chức " giữ những vị trí cao của các bộ thì mang nặng dấu ấn kinh điển của chủ nghĩa quan liêu". - Hệ thống pháp luật Đức đặc biệt nhấn mạnh rằng các quan hệ " công chức " là một dạng của quan hệ pháp luật - công cộng nơi mà bên kia là công chức còn một bên - Nhà nước, liên bang, bang, công xã và các cơ quan khác mang tính chất công quyền, ngoại lệ là những liên hiệp tôn giáo và các cơ quan của chúng. Và điều này với tư cách 40 chủ thể của các quan hệ có thể là những cơ quan liên Nhà nước mà CHLB Đức đa vào đó những các của mình, những cơ quan chấp hành công cộng chung, những cơ quan phi Nhà nước của hệ thống giáo dục, giao thông, truyền hình - Sự tồn tại đội ngũ các ở CHLB Đức như là một nhóm đặc biệt những người có liên quan tới công vụ Nhà nước được đặt cơ sở trên những qui định của các điểm 4 và 5 điều 33 Luật cơ bản CHLB Đức. Họ khác với công chức viên chức bình thường,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkl0017_2821.pdf