Đầu tưlà hoạt động sửdụng tiền vốn, tài nguyên đểsản xuất kinh doanh trong 
một thời gian tương đối dài nhằm thu vềlợi nhuận và lợi ích kinh tếxã hội. 
Nhưvậy hoạt động đầu tưcó có những đặc điểm chính sau đây: 
- Trước hết phải có vốn. Vốn bằng tiền, bằng các loại tài sản khác nhưmáy móc, thiết 
bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trịquyền sởhữu công nghiệp, bí quyết kĩ
thuật, quy trình công nghệ, dịch vụkĩthuật, giá trịquyền sửdụng đất,mặt nước, mặt biển, 
các nguồn tài nguyên khác. Vốn có thểlà vốn Nhà nước, vốn tưnhân, vốn góp, vốn cổ
phần,vốn vay dài hạn,trung hạn,ngắn hạn. 
- Một đặc điểm khác của đầu tưlà thời gian tương đối dài, thường từ2 năm trởlên, có 
thể đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những hoạt động ngắn hạn, 
thường trong vòng một năm tài chính thì không được gọi là đầu tư. Thờihạn đầu tư được 
ghi rõ trong quyết định đầu tưhoặc giấy phép đầu tư, và còn gọi là đời sống của dựán. 
Do dặc điểm thời gian dài nên người lập dựán cũng nhưngười thẩm định dựán 
cần có tầm nhìn xa vài 30 năm, đồng thờiphải thấy rằng đầu tưlà một hoạt động dài hơi 
, có nhiều rủi ro,ngoài ra không thểbỏqua quy luật thay đổi của gía trị đồng tiền theo 
thời gian dưới tác động của lãi suất nguồn vốn. Các tính toán đầu tưphải tính trên dòng 
tiền, bằng cách tính hiện giá của dòng tiền thu hồi và đầu tư. 
- Lợi ích do dựán mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính (biểu hiện qua 
lợi nhuận) và lợi ích kinh tế( biểu hiện qua các chỉtiêu kinh tếxã hội). Lợi ích kinh tế
xã hội thường được gọitắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến 
quyền lợi của chủ đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội,của 
cộng đồng. 
Dựa vào lợi ích tài chính, nhà đầu tưkểcảtrường hợp Nhà đầu tưlà Nhà Nước), 
có thểra được quyết định có đầu tưhay không. Dựa vào lợi ích kinh tếxã hội, Nhà nước 
sẽra được quyết định có có cấp phép đầu tưcho các nhà đầu tưkhông phải là Nhà nước 
hay không
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Giáo trính phân tích dự án: Những vấn đề về đầu tư và xây dựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN TÍCH 
DỰ ÁN 
YZ 
Chương 1: 
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG 
1.1.) Khái niệm quá trình đầu tư và xây dựng 
1.2.) Phân loại đầu tư 
1.2.1.) Theo chức năng quản lý vốn đầu tư 
1.2.2.) Theo tính chất sử dụng vốn đầu tư 
1.2.3.) Theo ngành đầu tư 
1.2.4.) Theo tính chất đầu tư 
1.2.5.) Theo nguồn vốn 
1.2.6.) Theo chủ đầu tư 
1.2.7.) Theo phạm vi đầu tư 
1.3.) Mục đích và mục tiêu đầu tư 
1.3.1.) Mục đích 
1.3.2.) Mục tiêu 
1.4.) Nội dung của quá trình đầu tư 
1.4.1.) Giai đoạn chuẩn bị đầu tư 
1.4.2.) Giai đoạn thực hiện đầu tư 
1.4.3.) Giai đoạn kết thúc xây dựng và đưa công trình vào khai thác sử dụng. 
1.4.4.) Phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư và xây dựng 
1.5.) Vốn đầu tư 
1.5.1.) Khái niệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản 
1.5.2.) Ý nghĩa vốn đầu tư 
1.5.3.) Thành phần vốn đầu tư 
1.5.4.) Nguyên tắc sử dụng các nguồn vốn đầu tư. 
1.5.5.) Thanh toán hoàn trả vốn đầu tư 
CHƯƠNG 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG 
1.1.) KHÁI NIệM QUÁ TRÌNH ĐầU TƯ VÀ XÂY DựNG : 
 Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên để sản xuất kinh doanh trong 
một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội. 
Như vậy hoạt động đầu tư có có những đặc điểm chính sau đây: 
- Trước hết phải có vốn. Vốn bằng tiền, bằng các loại tài sản khác như máy móc, thiết 
bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kĩ 
thuật, quy trình công nghệ, dịch vụkĩ thuật, giá trị quyền sử dụng đất,mặt nước, mặt biển, 
các nguồn tài nguyên khác. Vốn có thể là vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ 
phần,vốn vay dài hạn,trung hạn,ngắn hạn. 
- Một đặc điểm khác của đầu tư là thời gian tương đối dài, thường từ 2 năm trở lên, có 
thể đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những hoạt động ngắn hạn, 
thường trong vòng một năm tài chính thì không được gọi là đầu tư. Thờihạn đầu tư được 
ghi rõ trong quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư, và còn gọi là đời sống của dự án. 
Do dặc điểm thời gian dài nên người lập dự án cũng như người thẩm định dự án 
cần có tầm nhìn xa vài 30 năm, đồng thờiphải thấy rằng đầu tư là một hoạt động dài hơi 
, có nhiều rủi ro,ngoài ra không thể bỏ qua quy luật thay đổi của gía trị đồng tiền theo 
thời gian dưới tác động của lãi suất nguồn vốn. Các tính toán đầu tư phải tính trên dòng 
tiền, bằng cách tính hiện giá của dòng tiền thu hồi và đầu tư. 
- Lợi ích do dự án mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính (biểu hiện qua 
lợi nhuận) và lợi ích kinh tế ( biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội). Lợi ích kinh tế 
xã hội thường được gọitắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến 
quyền lợi của chủ đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội,của 
cộng đồng. 
 Dựa vào lợi ích tài chính, nhà đầu tư kể cả trường hợp Nhà đầu tư là Nhà Nước), 
có thể ra được quyết định có đầu tư hay không. Dựa vào lợi ích kinh tế xã hội, Nhà nước 
sẽ ra được quyết định có có cấp phép đầu tư cho các nhà đầu tư không phải là Nhà nước 
hay không. 
1.2.) PHÂN LOẠI ĐẦU TƯ : 
1.2.1.) THEO CHỨC NĂNG QUẢN TRỊ VỐN ĐẦU TƯ: 
1.2.1.1.) Đầu tư trực tiếp: 
 Đầu tư trực tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn và người quản lý sử dụng vốn là một 
chủ thể. Đầu tư trực tiếp có thể là đầu tư trong nước, theoluật khuyến khích đầu tư trong 
nước, hoặc đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
1.2.1.2.) Đầu tư gián tiếp: 
 Dầu tư gián tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là 
một chủ thể. Trường hợp đáng chú ý nhất là đầu tư gián tiếp bằng vốn nước ngoài. Đó là 
loại vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA), vốn của Nhà Nước vay nước ngoài với lãi 
suất ưu đãi. Những loại vốn này do Nhà Nước quản lý theo quy chế riêng. 
 1.2.2.)THEO TÍNH CHẤT SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ: 
 1.2.2.1.) Đầu tư phát triển: 
 Đầu tư phát triển là đầu tư trực tiếp nhằm tăng thêm giá trị tài sản, tạo ra 
năng lực mới hoặc cải tạo, mở rộng ,nâng cấp năng lực hiện có vì mục tiêu phát triển, có 
tác dụng quan trọng trong việc tái sản xuất mở rộng. 
1.2.2.2.) Đầu tư dịch chuyển: 
 Đầu tư dịch chuyển là đầu tư trực tiếp nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài 
sản. Lúc này không có sự gia tăng giá trị tài sản. Loại này có ý nghĩa quan trọng trong 
việc hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái,... hỗ trợ cho 
đầu tư phát triển. 
 1.2.3.) THEO NGÀNH ĐẦU TƯ: 
 - Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: là hoạt động đầu phát triển nhằm xây dựng cơ sở 
hạ tầng kỹ thuật và xã hội. 
 + Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước….. 
 + Cơ sở hạ tầng xã hội: trường học, bệnh viện, nhà trẻ…. 
 - Đầu tư phát triển công nghiệp: là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các 
công trình công nghiệp . 
 - Đầu tư phát triển nông nghiệp: là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các 
công trình nông nghiệp . 
 - Đầu tư phát triển dịch vụ: là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công 
trình dịch vụ, thương mại, khách sạn, dịch vụ khác…. 
1.2.4.) THEO TÍNH CHẤT ĐẦU TƯ: 
1.2.4.1.) Đầu tư mới: là đầu tư để xây dựng mới các công trình, nhà máy thành lập mới 
các công ty, mở các cửa hàng mới, dịch vụ mới. Đặc điểm của đầu tư mới là không phải 
trên cơ sở những cái hiện có phát triển lên. 
1.2.4.2.) Đầu tư theo chiều sâu: đây là loại đầu tư nhằm khôi phục, cải tạo, nâng cấp, 
trang bị lại, đồng bộ hóa, hiện đại hóa, mở rộng các đối tượng hiện có. 
1.2.5.) THEO NGUỒN VỐN: 
 -Vốn trong nước: là vốn hình thành từ nguồn tích luỹ nội bộ của nền kinh tế 
quốc dân. 
Các thành phần vốn trong nước: 
 + Vốn ngân sách nhà nước. 
 + Vốn tính dụng ưu đãi của nhà nước. 
 + Vốn thuộc quỹ hồ trợ đầu tư quốc gia. 
 + Vốn tính dụng thương mại. 
 + Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. 
 + Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài. 
 + Vốn do chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện huy động sự đóng góp của tổ 
chức, cá nhân. 
 + Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế không thuộc doanh nghiệp nhà nước 
và vốn đầu tư của dân. 
 - Vốn ngoài nước: 
 + Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ 
quốc tế dành cho phát triển (kể cả vốn ODA). 
 + Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). 
 + Vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan 
nước ngoài khác được phép xây dựng trên đất nước VN. 
1.2.6.) THEO CHỦ ĐẦU TƯ: 
 - Chủ đầu tư là nhà nước (đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và xã 
hội). 
 - Chủ đầu tư là các doanh nghiệp (các doanh nghiệp nhà nước, ngoài nhà nước, 
liên doanh, độc lập …) 
1.2.7 THEO PHẠM VI ĐẦU TƯ: 
1.2.7.1. Đầu tư trong nước: 
Đầu tư trong nước là việc bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức, 
công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu 
dài tại Việt Nam. Đầu tư trong nước chịu sự điều chỉnh của Luật khuyến khích đầu tư 
trong nước. Luật này điều chỉnh loại đầu tư trực tiếp trong nước ta. 
1.2.7.2. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: 
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tạiViệt Nam, dưới nay gọi tắt là đầu tư nước 
ngoài, là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản 
nào khác để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam. 
1.2.7. 3.Đầu tư ra nước ngoài 
 Ở Việt Nam hiện nay còn ít trường hợp một tổ chức hoặc công dân Việt Nam đầu 
tư sang các nước khác nên cũng chưa có luật. 
1.3.) MụC ĐÍCH VÀ MụC TIÊU ĐầU TƯ. 
1.3.1.) MỤC ĐÍCH: 
 Mục đích chủ yếu của đầu tư là sinh lợi. Khả năng sinh lợi là điều kiện cần 
thiết để đầu tư. Để tránh những cuộc đầu tư không sinh lợi, để đảm bảo khả năng sinh lợi 
tối đa một khi đã bỏ vốn đầu tư thì phải tiến hành một cách có hệ thống, có phương pháp 
theo một tiến trình gồm các bước sau: 
- Nghiên cứu và đánh giá cơ hội đầu tư (báo cáo kinh tế – kỹ thuật về cơ hội 
đầu tư). 
 - Nghiên cứu tiền khả thi 
- Nghiên cứu khả thi. 
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư. 
- Thiết kế. 
- Tổ chức đấu thầu, đàm phán, kí kết hợp đồng. 
- Xây dựng, lắp đặt, tuyển dụng, đào tạo lao động. 
- Nghiệm thu, bàn giao, thanh quyết toán. 
Trong trường hợp dự án phức tạp thì giữa bước 2 và bước 3 người ta còn 
tiến hành khảo sát bổ sung một trong các trường hợp sau. 
- Khảo sát thị trường. 
- Khảo sát về nguyên vật liệu. 
- Khảo sát về địa điểm công trình. 
- Khảo sát về năng lực cuả các nhà thầu. 
1.3.2.) MỤC TIÊU: 
Mục tiêu là cơ sở thiết lập tiêu chuẩn hiệu quả, “cái chuẩn“ để ra quyết định 
lựa chọn phương án đầu tư. Việc phân tích, so sánh các phương án đầu tư được tiến hành 
thông qua một số chỉ tiêu nhất định. Nhìn chung có hai nhóm mục tiêu chính: 
 + Nhóm mục tiêu kinh tế . 
 + Nhóm các mục tiêu xã hội . 
1.3.2.1.) Các mục tiêu kinh tế: gồm các loại sau: 
 - Lợi nhuận lớn nhất. 
 - Chi phí nhỏ nhất. 
 - Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lượng hàng hoá bán ra lớn nhất. 
 - Đạt được một mức độ lợi nhuận nhất định. 
 - Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp tránh bị phá sản. 
 - Đạt được sự ổn định nội bộ … 
 Tại một thời điểm, một doanh nghiệp có thể có một số mục tiêu. 
Các mục tiêu lại có thể thay đổi theo thời gian. 
1.3.2.2.) Các mục tiêu xã hội. 
 Thuộc nhóm này có các mục tiêu nâng cao đời sống văn hoá - xã hội, 
lợi ích cộng đồng v.v… 
 Tổ chức phát triển công nghiệp của liên hiệp quốc (UNIDO) đã đưa ra 
các mục tiêu khi phân tích các dự án cho các nước đang phát triển: 
- Nhu cầu tiêu dùng tổng hợp. 
- Phân phối thu nhập. 
- Tốc độ tăng cường thu nhập quốc dân. 
- Tạo việc làm. 
- Mức độ tự lực cánh sinh. 
- Những mong muốn chính đáng như phát triển giáo dục….. 
1.2.3.3.) Quan điểm của người đầu tư. 
 Mục tiêu đầu tư nó phụ thuộc vào quan điểm của người đầu tư, nghĩa là phụ 
thuộc vào cách nhìn nhận lợi ích của họ. 
- Tư nhân đầu tư trong nước hay ngoài nước, thì điều mà họ quan tâm 
nhất là lợi nhuận. 
- Nhà nước đầu tư thì mục tiêu đầu tư phải xuất phát từ lợi ích quốc 
gia hoặc của một ngành, một vùng lãnh thổ. 
 Trong mọi trường hợp, dù xuất phát từ quan điểm tư nhân đầu tư hay nhà 
nươc đầu tư cũng phải cân nhắc kỹ những tổn thất có thể xảy ra mà xã hội phải gánh 
chịu, nhất là môi trường sinh thái. 
1.4.) NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG. 
Từ quan điểm hệ thống mà xét thì quá trình đầu tư được coi là một hệ thống phức 
tạp có đầu vào và đầu ra: 
− Ở đầu vào, các nguồn tài nguyên, lao động, tài chính… được đưa vào hệ thống 
như là những tiền đề vật chất của quá trình. 
− Các kết quả kinh tế-xã hội của sự vận động và phát triển của hệ thống biểu hiện 
dưới dạng công trình đã hoàn thành xuất hiện ở đầu ra sẽ tác động trực tiếp lên nền kinh 
tế quốc dân. Những kết quả này sẽ tham gia vào quá trình tái sản xuất và tạo nên những 
tiền đề vật chất mới cho chu trình sản xuất mới của quá trình đầu tư. 
− Nội dung bên trong của quá trình đầu tư diễn ra theo sự vận động khách quan 
của nó và tuân theo trình tự đầu tư và xây dựng do Nhà nước quy định. 
Trình tự đầu tư và xây dựng được hiểu như là một cơ chế để tiến hành các hoạt 
động đầu tư và xây dựng, trong đó quy định rõ thứ tự nội dung các công việc cùng trách 
nhiệm và mối quan hệ giữa các bên hữu quan trong việc thực hiện các công việc đó. 
Theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành theo Nghị định số 52/1999 
ngày 08/7/1999, mọi công tác đầu tư và xây dựng đều phải được tiến hành đúng trình tự 
theo ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết 
thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác sử dụng. 
1.4.1.) GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ: 
 Tất cả các công trình dự định đầu tư đều phải trải qua giai đoạn chuẩn bị đầu tư 
để chuẩn bị chu đáo các công tác sau đây: 
− Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư xây dựng công trình. 
− Tiếp xúc thăm dò thị trường trong nước hoặc ngoài nước để tìm nguồn cung 
ứng vật tư, thiết bị tiêu thụ sản phẩm, khả năng có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư 
và lựa chọn hình thức đầu tư. 
Quá trình đầu tư
Công trình hoàn thành và 
kết quả kinh tế-xã hội 
của việc đưa công 
trình vào khai thác. 
Kết thúc xây dựng đưa 
công trình vào khai 
thác sử dụng 
Đầu vào Đầu ra 
− Tài nguyên 
− Vật tư-thiết bị 
− Tài chính 
− Lao động 
− Tri thức 
Thực hiện đầu tư 
Chuẩn bị đầu tư 
 Các giai đoạn
− Điều tra khảo sát, chọn địa điểm xây dựng. 
− Lập dự án đầu tư. 
− Gửi hồ sơ dự án và các văn bản trình đến người có thẩm quyền quyết định đầu 
tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án. 
1.4.2.) GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐẦU TƯ: 
Đây là giai đoạn giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện quá trình đầu tư nhằm 
vật chất hóa vốn đầu tư thành tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. 
Ở giai đoạn này trước hết cần làm tốt công tác chuẩn bị xây dựng. Chủ đầu tư có 
trách nhiệm: 
− Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước. 
− Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên. 
− Chuẩn bị mặt bằng xây dựng. 
− Mua sắm thiết bị và công nghệ. 
− Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kỹ thuật và chất lượng 
công trình. 
− Thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán. 
− Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công xây lắp công trình. 
− Ký kết hợp đồng với nhà thầu để thực hiện dự án. 
Các tổ chức xây lắp có trách nhiệm: 
− Chuẩn bị các điều kiện cho thi công xây lắp. San lắp mặt bằng xây dựng điện, 
nước, công xưởng kho tàng, bến cảng, đường xá, lán trại và công trình tạm phục vụ thi 
công, chuẩn bị vật liệu xây dựng v.v… 
− Chuẩn bị xây dựng những công trình liên quan trực tiếp. 
Bước công việc tiếp theo của giai đoạn thực hiện đầu tư là tiến hành thi công xây 
lắp công trình theo đúng thiết kế, dự toán và tổng tiến độ được duyệt. Trong bước công 
việc này, các cơ quan, các bên đối tác có liên quan đến việc xây lắp công trình phải thực 
hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Cụ thể là: 
− Chủ đầu tư có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng. 
− Các nhà tư vấn có trách nhiệm giám định kỹ thuật và chất lượng công trình theo 
đúng chức năng và hợp đồng kinh tế đã ký kết. 
− Các nhà thầu phải thực hiện đúng tiến độ và chất lượng xây dựng công trình 
như đã ghi trong hợp đồng. 
Yêu cầu quan trọng nhất đối với công tác thi công xây lắp là đưa công trình vào 
khai thác, sử dụng đồng bộ, hoàn chỉnh, đúng thời hạn quy định theo tổng tiến độ, đảm 
bảo chất lượng và hạ giá thành xây lắp. 
1.4.3.) GIAI ĐOẠN KẾT THÚC XÂY DỰNG ĐƯA CÔNG TRÌNH VÀO KHAI 
THÁC SỬ DỤNG: 
Nội dung công việc của giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác 
sử dụng bao gồm: nghiệm thu, bàn giao công trình, thực hiện việc kết thúc xây dựng, vận 
hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình, bảo hành công trình, quyết toán vốn 
đầu tư, phê duyệt quyết toán. 
Công trình chỉ được bàn giao toàn bộ cho người sử dụng khi đã xây lắp hoàn chỉnh 
theo thiết kế được duyệt và nghiệm thu đạt chất lượng. Hồ sơ bàn giao phải đầy đủ theo 
quy định và phải được nộp lưu trữ theo các quy định pháp luật về lưu trữ Nhà nước. 
Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng xây dựng chỉ được chấm dứt hoàn toàn khi hết thời 
hạn bảo hành công trình. 
Sau khi nhận bàn giao công trình, chủ đầu tư có trách nhiệm khai thác, sử dụng đầy 
đủ năng lực công trình, hoàn thiện tổ chức và phương pháp quản lý nhằm phát huy đầy 
đủ các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật đã đề ra trong dự án. 
1.4.4.) PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ XDCB : 
1.4.4.1.) Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư : 
 Muốn nâng cao hiệu quả kinh tế của đầu tư xây dựng cơ bản cần phải xác định 
các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của đầu tư xây dựng cơ bản. Anh hưởng đến 
đầu tư xây dựng cơ bản có thể là nhân tố chủ quan hay khách quan. Các nhân tố chủ 
quan là trình độ lập và thực hiện các phương án đầu tư kể từ khi xác định đường lối 
chiến lược đầu tư cho đến khâu sử dụng các công trình đã được xây dựng. Các nhân tố 
khách quan như tình hình tài nguyên, điều kiện khí hậu và dân số, trình độ phát triển 
kinh tế kỹ thuật của đất nước, khả năng cung cấp vốn, các nhân tố kinh tế đối ngoại, các 
nhân tố phi kinh tế và ngẫu nhiên khác. 
 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư có thể trực tiếp hay gián tiếp. Các nhân tố trực 
tiếp như giải pháp thiết kế công trình đã được đầu tư và xây dựng, mức giá cả để tính 
toán vốn đầu tư cơ bản và giá thành sản phẩm của công trình, trình độ sử dụng thực tế 
của công trình đã được xây dựng xong, cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản, năng suất lao 
động xã hội được biểu hiện thông qua giá cả để xác định vốn đầu tư xây dựng cơ bản và 
giá thành sản phẩm của công trình. Các nhân tố gián tiếp như cơ chế quản lý kinh tế tác 
động lên quá trình xây dựng và sử dụng công trình sau khi xây dựng xong, cơ chế đầu tư 
tác động lên quá trình đầu tư. 
 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư có thể xét theo các giai đoạn đầu tư 
như: Chuẩn bị đầu tư, khảo sát thiết kế và tiến hành xây dựng các công trình. Sau đây là 
một số phương hướng nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư xây dựng cơ bản xét 
theo các giai đoạn giải quyết vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản. 
1.4.4.2.) Phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản: 
 a) Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: 
 Ở giai đoạn này việc xác định đường lối chiến lược đầu tư có một ý nghĩa quan 
trọng. Phải vận dụng sáng tạo lý luận Kinh tế chính trị học Mác-Lênin và các kinh 
nghiệm dầu tư của các nước một cách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam đã xác 
định cơ sở chiến lược đầu tư xây dựng cơ bản. Những vấn đề này đã được thể hiện ở 
Nghị quyết của các đại hội Đảng toàn quốc trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện bước 
đi của đầu tư cơ bản trong các thời kỳ tiếp theo. 
 Ở giai đoạn lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản phải đặc biệt chú ý giải quyết vấn 
đề cơ cấu đầu tư. Các phương hướng chung về cơ cấu đầu tư đã được Nghị quyết của 
Đại hội Đảng nêu lên, nhưng ở giai đoạn lập kế hoạch, bên cạnh vấn đề định hình định 
hướng ta phải giải quyết vấn đề định hình định hướng một cách cụ thể hơn. Ở giai đoạn 
lập kế hoạch phải tiến hành sắp xếp trình tự xây dựng các công trình một cách cụ thể và 
phải xác định mức độ ưu tiên cho từng lĩnh vực, các ngành mũi nhọn, cho các công trình 
trọng điểm thông qua tỷ lệ vốn đầu tư bỏ ra một cách hợp lý. 
 b.) Giai đoạn khảo sát thiết kế. 
 Giai đoạn này có tầm quan trọng đặc biệt vì các công trình thiết kế sẽ là biểu hiện 
cụ thể của đường lối phát triển kinh tế và phát triển khoa học kỹ thuật của Đảng và Nhà 
nuớc. 
 Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư là lựa chọn các giải pháp 
thiết kế về quy hoạch mặt bằng, về dây chuyền công nghệ, về giải pháp kiến trúc, kết cấu 
và tổ chức dây chuyền công nghệ xây dựng có tính kinh tế cao. 
 Phải nâng cao chất lượng thăm dò khảo sát bằng cách triệt để áp dụng các thành tựu 
khoa học kỹ thuật lớn, nâng cao trình độ của cán bộ và cơ quan thiết kế. Việc nâng cao 
hiệu quả kinh tế vốn đầu tư trong giai đoạn thiết kế còn thể hiện trong việc tăng cường 
thiết kế mẫu, điển hình là việc hoàn thiện các định mức giá cả. 
 c) Giai đoạn xây dựng: 
 Ở giai đoạn tiến hành xây dựng công trình phải áp dụng các biện pháp tổ chức và 
công nghệ xây dựng có tính kinh tế cao, tìm mọi biện pháp rút ngắn thời gian thi công. 
Ap dụng phân kỳ xây dựng một cách hợp lý, giảm bớt khối lượng thi công dở dang. 
 Nâng cao hiệu quả kinh tế trong giai đoạn xây dựng còn thể hiện việc tăng cường 
đảm bảo chất lượng công trình và việc phối hợp chặt chẽ giữa các khâu trong thi công. 
1.5.) VỐN ĐẦU TƯ. 
Theo định nghĩa về quá trình đầu tư và xây dựng như trên thì hoạt động đầu tư thực 
hiện bằng cách tiến hành xây dựng các tài sản cố định gọi là đầu tư xây dựng cơ bản. 
Như vậy, xây dựng ở đây được coi như là một phương tiện để đạt được mục đích đầu tư. 
Quá trình đầu tư cơ bản là toàn bộ các hoạt động của chủ đầu tư từ khi bỏ vốn đến khi 
thu được kết quả thông qua việc tạo ra và đưa vào hoạt động các tài sản cố định. Quá 
trình đầu tư cơ bản là toàn bộ các hoạt động để chuyển vốn đầu tư dưới dạng tiền tệ sang 
tài sản phục vụ mục đích đầu tư. Mục đích của hoạt động xây dựng cơ bản là tạo ra được 
các tài sản có năng lực sản xuất hoặc phục vụ phù hợp với mục đích đầu tư. Kết quả của 
quá trình xây dựng cơ bản là các tài sản cố định được tạo ra dưới dạng vật chất cụ thể, 
còn kết quả đầu tư là những lợi ích thu được dưới dạng các hình thức khác nhau. 
Như vậy, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản tạo nên cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế 
quốc dân. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những đất nước đang 
phát triển như Việt Nam ta. Con đường ngắn nhất để đưa đất nước nhanh chóng tiến lên 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Muốn vậy, 
bên cạnh chính sách ưu đãi của nhà nước về pháp luật đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải đi trước 
một bước. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn cho Việt Nam ta là: tiềm năng kêu gọi 
đầu tư của ta là rất lớn nhưng cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém. Nói như thế không có 
nghĩa là chúng ta chê bai hay chỉ trích bản thân chúng ta mà ta dám thẳng thắn nhìn nhận 
vấn đề để đưa ra hướng đi mới cho nền kinh tế của đất nước. Và thực tế thì trong những 
năm vừa qua đã có những chuyển biến tích cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở 
nhiều địa phương trong cả nước mà phải kể đến trước tiên là tỉnh Bình Dương. Kết quả 
đạt được trong những năm vừa qua đã cho thấy rằng con đường mà các nhà lãnh đạo địa 
phương này đã chọn là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu hướng phát triển của thời 
đại: tranh thủ các nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm kêu gọi đầu tư 
nước ngoài. 
Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề này, trước hết ta cần hiểu vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 
gì, có thể tranh thủ vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ những nguồn nào và quản lý sử dụng 
vốn đầu tư XDCB như thế nào cho có hiệu quả nhất? 
 1.5.1) KHÁI NIỆM VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN. 
 Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: chi 
phí cho khảo sát quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí về thiết kế và xây dựng, 
chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán. 
 1.5.2.) Ý NGHĨA VỐN ĐẦU TƯ. 
 Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, vốn đầu tư xây dựng cơ bản có 
tác dụng to lớn, nó là tiền đề vật chất của việc xây dựng, nó tạo ra tài sản cố định mới 
cho nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự thay đổi về cơ bản làm tăng năng lực sản xuất của 
nhiều ngành sản xuất tạo điều kiện nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất. Đầu tư XDCB 
góp phần cân đối lại đối tượng lao động xã hội, phân bố hợp lý sức sản xuất. Ngoài ra, 
quy mô và tốc độ đầu tư cơ bản còn phản ánh quy mô, tốc độ phát triển của nền kinh tế 
quốc dân. 
 1.5.3.) THÀNH PHẦN VỐN ĐẦU TƯ. 
 Để tiến hành hoạt động đầu tư cần phải bỏ vốn. Để số vốn bỏ ra mang lại hiệu 
quả kinh tế cao trong tương lai khá xa đòi hỏi phải chuẩn bị cẩn thận về mọi mặt: tiền 
vốn vật tư, lao động, phải xem xét khía cạnh về tự nhiên, kinh tế, xã hội, kỹ thuật, pháp 
luật có liên quan đến quá trình thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư. Sự 
chuẩn bị này, quá trình xem này đòi hỏi phải chi tiêu. Mọi chi tiêu cho quá trình đầu tư 
phải được tính vào chi phí đầu tư. 
Vốn đầu tư để thực hiện một dự án đầu tư hay tổng mức đầu tư là toàn bộ số 
vốn đầu tư dự kiến để chi phí cho toàn bộ quá trình đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đầu 
tư để đưa vào khai thác và sử dụng theo yêu cầu của dự án. 
Vốn đầu tư có hai thành phần chính. 
 - Vốn cố định: được dùng để xây dựng công trình, mua sắm thiết bị. 
 - Vốn lưu động: được dùng cho quá trình khai thác và sử dụng các tài sản 
cố định của dự án đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh sau này. 
 Ngoài ra còn chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí dự phòng. 
 Tổng dự toán công trình là phần vốn đầu tư cần thiết cho việc xây dựng của 
các dự án đầu tư có kèm theo nhu cầu về xây dựng công trình. Tổng dự toán được tính 
toán cụ thể trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Tổng dự toán bao gồm ba loại chi phí sau: 
 + Chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị công trình. 
 + Chi phí cho việc xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị vào công 
trình. 
 + Các chi phí khác bao gồm: chi phí cho việc khảo sát, thiết kế, cho sử 
dụng đất đai đền bù giải phóng mặt bằng, cho việc xây dựng khu phu trợ nhà làm việc, 
láng trại đối với các công trình có qui mô lớn, cho các chi phí khác kể cả chi phí dự 
phòng. 
 1.5.4.) NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ. 
 Hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế nhằm tạo ra và duy trì 
sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Quá trình sử dụng vốn đầu tư 
xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn 
hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Số vốn 
bằng tiền đó được tạo ra từ những nguồn gốc khác nhau vì vậy phải được phân cấp quản 
lý sử dụng. Nguyên tắc quản lý sử dụng các nguồn vốn đầu tư được quy định cụ thể như 
sau: 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ptda.pdf ptda.pdf