Định nghĩa 
Sinh lý bệnh lý học hay gọi tắt là sinh lý bệnh học là môn học 
nghiên cứu vềcơchếphát sinh, phát triển và kết thúc của bệnh; tức là 
nghiên cứu những thay đổi của cơthểbịbệnh trong quá trình bệnh lý điển 
hình và cuối cùng đểtìm hiểu những quy luật hoạt động của bệnh nói 
chung. Theo Purkinje: “Sinhlý bệnh là sinh lý của cơthểbịbệnh“ 
Sinh lý bệnh nghiên cứu những trường hợp bệnh lý cụthể, phát hiện 
và mô tảnhững thay đổi vềsựhoạt động chức năng của cơthể, cơquan, 
mô và tếbào khi chúng bịbệnh; từ đó rút ra những quy luật chi phối 
chúng, khác với những quy luật hoạt động lúc bình thường: đó là sinh lý 
bệnh học cơquan, bộphận. Ví dụSinh lý bệnh tuần hoàn (Sinh lý bệnh cơ
quan). 
              
                                            
                                
            
 
            
                 85 trang
85 trang | 
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình sinh lý bệnh học người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh lý như cơ thể đang phát 
triển, phụ nữ đang có thai và cho con bú, hoặc trong nhiều tình trạng bệnh 
lý như sốt, nhiễm trùng, bỏng, chấn thương, phẩu thuật, ưu năng tuyến 
giáp, hội chứng thận hư... 
3. Chuyển hóa protid 
3.1. Chuyển hóa protid thức ăn 
Protein thức ăn chịu sự giáng hóa đầu tiên tại dạ dày do tác dụng của 
pepsin dịch vị, nhưng sự thủy phân hoàn toàn protein phần lớn do tác dụng 
của trypsin và chymotrypsin của dịch tụy và của các endopeptidase và 
exopeptidase khác như carboxypeptidase. Cuối cùng thành oligopeptid, 
dipeptid và acid amin. 
Dipeptid được hấp thu nhanh hơn acid amin do cơ chế hấp thu khác 
nhau. Acid amin được hấp thu nhanh tại tá tràng và hổng tràng, chậm tại 
hồi tràng. 
Mỗi nhóm acid amin được hấp thu theo một cơ chế vận chuyển khác 
nhau: (1) nhóm dipeptid, (2) nhóm acid amin trung tính (alanin, 
tryptophan,); (3) nhóm có hai gốc NH3 (arginin, lysin và ornithin); riêng 
cystein là acid amin trung tính nhưng được vận chuyển theo cơ chế này; 
(4) nhóm imino (prolin và hydroxyprolin), (5) nhóm có hai gốc COOH 
(acid glutamic và acid aspartic). Riêng glycin được vận chuyển theo cả 
nhóm (2) và nhóm (4). 
 60 
Cơ chế hấp thu theo nhóm giải thích một số rối loạn di truyền như 
trong chứng cystin niệu không những chỉ có rối loạn tái hấp thu cystin mà 
cả arginin, lysin và ornithin. 
Các acid nucleic giáng hóa thành các base purin và pyrimidin rồi 
được hấp thu, nhưng trong cơ thể các base này chủ yếu được tổng hợp 
mới. 
Trẻ bú mẹ có thể hấp thu immunoglobulin theo cơ chế ẩm bào. 
Một số người có thể do tăng tính thấm tại lòng ruột làm dễ hấp thu 
các chuỗi polypeptid dẫn đến tình trạng dị ứng thức ăn. Chỉ khoảng 25% 
trường hợp rối loạn dung nạp thức ăn là do cơ chế dị ứng. 
3.2. Cân bằng nitơ 
Cứ 6,25g protid giáng hóa tạo ra 1g nitơ. Nitơ bài tiết chủ yếu dưới 
dạng urê trong nước tiểu, phần còn lại được đào thải qua phân, mồ hôi và 
nitơ khác không thuộc urê nước tiểu, trong đó nitơ trong phân khoảng 2g, 
lượng nitơ khác bằng khoảng 20% lượng nitơ thuộc urê nước tiểu. 
Ở người bình thường trọng lượng cơ thể ổn định, quá trình đồng hóa 
và dị hóa protein như vậy cân bằng nhau, phản ảnh qua cân bằng nitơ: 
Nitơ tiêu thụ (g/ngày) = [Nitơ thuộc urê nước tiểu (g)/ngày + 20%] + 2g 
Ví dụ nitơ thuộc urê trong nước tiểu 6g/ngày thì lượng nitơ tiêu thụ 
là: 
6 + (6 x 20%) + 2 = 9,2 g/ngày. 
Từ đó có thể tính nhu cầu về protid: 
9,2 g/ngày x 6,25 = 57,5g/ngày 
Nếu protid thức ăn tăng thì lượng acid amin thừa bị khử amin rồi 
thải dưới dạng urê, duy trì cân bằng nitơ. Khi cơ thể đang phát triển, hoặc 
hồi phục sau bệnh nặng, nếu cung cấp đủ nhu cầu protid thì cân bằng nitơ 
dương tính. 
Ngược lại, trong nhiều trường hợp bênh lý như sốt, ưu năng tuyến 
giáp, đói, bất động kéo dài có thể dẫn đến cân bằng nitơ âm tính do thiếu 
cung cấp hoặc tăng dị hóa. 
II. Rối loạn chuyển hóa protid 
1. Rối loạn chuyển hóa axid amin 
Hiếm gặp, phần này chỉ nêu một vài nét minh họa. 
1.1. Tăng acid amin niệu do rối loạn tái hấp thu tại ống thận 
Hầu hết các acid amin tham gia cấu trúc của các polypeptid và 
 61 
protein trong cơ thể. Một lượng nhỏ acid amin ở dạng tự do trong máu, 
lượng này quan trọng vì tế bào cơ thể trực tiếp sử dụng. Ða số các acid 
amin được lọc tự do qua cầu thận rồi được tái hấp thu gần hết tại ống uốn 
gần theo cơ chế vận chuyển tích cực qua các thụ thể đặc hiệu. Sự tái hấp 
thu acid amin tại ống thận cũng diễn ra theo nhóm như sự hấp thu acid 
amin tại niêm mạc ruột. Tăng axid amin niệu xảy ra do (1) thụ thể bị bảo 
hòa, (2) có các chất cạnh tranh với thụ thể, hoặc (3) rối loạn cấu trúc và 
chức năng của thụ thể. Tăng acid amin niệu thường là di truyền theo kiểu 
tự thân lặn, có thể không có biểu hiện bệnh lý như trong iminoglycin niệu, 
acid amin dicarboxylic niệu, hoặc có triệu trứng lâm sàng đôi khi rất nặng 
như trong histidin niệu (chậm phát triển trí tuệ), lysin niệu (chậm phát 
triển về trí tuệ và thể chất, có cơn co giật), cystin niệu (sỏi cystin tại thận). 
Bảng 7.1: Tăng acid amin niệu do rối loạn tái hấp thu tại ống thận 
Kiểu rối loạn Tên rối loạn Loại acid amin niệu 
Từng acid amin 
Theo nhóm 
Toàn thể 
Histidin niệu 
Lysin niệu 
Cystin niệu 
Bệnh Harnup 
Iminoglycin niệu 
Acid amin 
dicarboxylic niệu 
Hội chứng Fanconi 
Histidin 
Lysin 
Cystin, lysin, ornithin, arginin 
Acid amin trung tính 
Glycin, prolin, hydroxyprolin 
Acit glutamic, acid aspartic 
Mọi acid amin 
Cystin niệu là loại rối loạn bẩm sinh thường gặp nhất do thiếu sót di 
truyền về thụ thể tại ống thận, trong đó còn nhận thấy cả lysin, ornithin và 
arginin niệu vì các acid amin này được tái hấp thu theo cùng một nhóm. 
Cystin là loại acid amin ít hòa tan nhất, độ hòa tan tối đa trong nước 
tiểu vào khoảng 300mg/L. Bệnh nhân đồng hợp tử gen bệnh có thể tiết 
600-1800mg cystin /ngày. Tăng cystin niệu có thể dẫn đến kết tủa tinh thể 
cystin hình lục giác trong nước tiểu, dễ gây hình thành sỏi thận. 
Hội chứng Fanconi có thể do di truyền, hoặc mắc phải do bị ngộ độc 
kim loại nặng như thủy ngân, chì, trong đó acid amin niệu chỉ là một triệu 
chứng ít quan trọng so với các triệu chứng khác như glucose niệu, 
phosphat niệu, bicarbonat niệu, acid uric niệu. 
1.2. Rối loạn chuyển hóa acid amin do thiếu enzym 
Có một vài bệnh lý di truyền gây rối loạn chuyển hoá acid amin do 
thiếu enzym như thiếu phenylalanin hydroxylase gây tăng phenylalanin 
máu, thiếu fumarylacetoacetat hydrolase gây tăng tyrosin máu. 
 62 
Ðiển hình là chứng tăng phenylalanin máu. Trẻ em bị bệnh chậm 
phát triển về trí tuê, lúc mới sinh còn bình thường, sau đó trở nên đần độn. 
Xét nghiệm sàng lọc phenylalanin máu cho trẻ sơ sinh có thể phát hiện 
sớm chứng này và giúp điều trị hiệu quả bằng chế độ ăn giảm 
phenylalanin. 
2. Rối loạn protid huyết tương 
Protid trong huyết tương vào khoảng 70--80g/L với hơn 100 chất 
khác nhau, trong đó chủ yếu là albumin (40-50g/L) và globulin (20-
30g/L). Nguồn gốc chủ yếu của protid huyết tương là gan. Gan tạo 95% 
albumin, 85% globulin và các loại khác như fibrinogen, yếu tố đông máu, 
bổ thể. Một phần protid huyết tương có nguồn gốc từ các mô khác như 
kháng thể, hormon. 
Vai trò của protid huyết tương: 
(1) Tạo áp lực thẩm thấu keo (pk) trong lòng mạch. Vai trò này chủ 
yếu do albumin quyết định nhờ có nồng độ cao và tạo áp lực mạnh (mỗi 
gam albumin tạo một áp lực là 5,54 mmHg trong khi một gam globulin chỉ 
tạo 1,43 mmHg). Do vậy khi giảm protid huyết tương sẽ gây ra triệu 
chứng phù toàn thân (phù do giảm pk máu). 
(2) Tham gia điều hòa cân bằng acid bazơ (hệ protein/proteinat). 
(3) Tham gia bảo bệ cơ thể chống nhiễm trùng (kháng thể, bổ thể). 
(4) Vận chuyển nhiều chất trong máu (ceruloplasmin vận chuyển 
đồng, transferrin vận chuyển sắt). 
(5) Tham gia cơ chế đông máu (các yếu tố đông máu). 
(6) Chứa nhiều hoạt chất quan trọng khác như enzym, hormon. 
Protid huyết tương còn được xem là một dạng protid dự trử. Bình 
thường có một lượng protid huyết tương được tiết vào lòng ruột, được tiêu 
hóa như là một protid thức ăn rồi được tái hấp thu trở lại dưới dạng acid 
amin. Thời gian bán thoái hóa của albumin là 16-20 ngày, của globulin là 
8-10 ngày. Một số rối loạn tiêu hóa, đặc biệt là bệnh viêm ruột xuất tiết 
gây mất nhiều protid huyết tương. 
Giảm protid huyết tương là tình trạng bệnh lý thường gặp trên lâm 
sàng, do nhiều nguyên nhân gây ra, hay gặp là bênh lý gan thận. Tăng 
protid huyết tương rất hiếm gặp, thường là tăng giả do tình trạng cô đặc 
máu do mất nước. Do vậy khi biện luận về lượng protid huyết tương cần 
lưu ý đến tình trạng chuyển hóa nước. 
2.1. Giảm protid huyết tương 
 63 
Giảm protid huyết tương phản ánh tình trạng giảm khối lượng protid của 
cơ thể, một gam protid huyết tương đại diện cho 30 gam protid của cơ thể. 
Nguyên nhân: 
(1) Giảm bổ sung protid vào huyết tương, có thể do: 
Thiếu protid trong thức ăn: thiếu về lượng như ăn nhiều bột, ít thịt 
cá, hoặc thiếu về chất như chỉ ăn protid thưc vật có giá trị sinh học thấp. 
Giảm ăn như khi bị hôn mê hoặc sau phẩu thuật. 
Rối loạn tiêu hóa và hấp thu protid như tiêu chảy, viêm tụy mạn... 
Giảm tổng hợp protid do bệnh lý gan như xơ gan. 
(2) Mất protid huyết tương ra ngoài cơ thể, có thể gặp trong bệnh 
viêm ruột xuất tiết (mất qua đường tiêu hóa), hội chứng thận hư (mất qua 
đường tiết niệu), bỏng (mất qua da). 
(3) Tăng sử dụng protid huyết tương do sốt kéo dài, ưu năng tuyến 
giáp (tăng chuyển hóa cơ sở) hoặc ung thư giai đoạn cuối. 
Hậu quả: 
(1) Phù toàn thân do giảm áp lực thẩm thấu keo máu. Mức độ phù 
phụ thuộc chủ yếu lượng albumin máu. Khi albumin dưới 30g/L có biểu 
hiện phù trên lâm sàng. 
(2) Trẻ em chậm lớn, người lớn sút cân, vết thương chậm tái tạo, 
thiếu máu, suy nhược cơ thể. 
2.2. Thay đổi thành phần protid huyết tương 
Protid huyết tương được tách bằng điện di cho 5 thành phần chính: 
Bảng 7.2: Thành phần protid huyết tương 
Tên thành phần 
Protid huyết tương 
Tỉ lệ % Tỉ lệ % 
gần đúng 
Albumin 56,9 + 4,2 60 
Alpha-1-globulin 5,1 + 0,9 4 
alpha-2-globulin 7,6 + 1,7 8 
Beta-globulin 10,1 + 1,3 12 
Gamma-globulin 20,2 + 3,3 16 
2.2.1. Nguyên nhân 
(1) Giảm albumin trong mọi tường hợp có giảm prrotid huyết tương. 
(2) Tăng alpha-globulin trong viêm như viêm gan, hoại tử tổ chức 
như nhồi máu cơ tim, hoặc trong bệnh thận nhiễm mỡ. Tăng alpha-
globulin dẫn đến tăng độ quánh của máu, tăng tốc độ lắng máu. 
 64 
(3) Tăng beta-globulin trong hội chứng ứ mật, thiểu năng tuyến giáp, 
tăng lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL). 
(4) Tăng gamma-globulin trong các trường hợp có tăng tạo kháng 
thể như nhiễm khuẩn, u tương bào. 
2.2.2. Hậu quả 
Huyết tương dễ bị kết tủa khi cho phản ứng với muối của kim loại 
nặng, cơ chế chủ yếu là do giảm trạng thái phân tán ổn định của protid khi 
thiếu albumin. Nhưng các phản ứng này không đặc hiệu cho bệnh lý nguyên 
nhân và thường phản ảnh chậm khi bệnh đã rõ. 
 Bảng 7.3: Phản ứng đánh giá sự thay đổi thành phần protid huyết tương 
Tên phản ứng Chất phản ứng Kết quả phản ứng 
Takata Ara HgCl Kết tủa 
Welmann CaCl2 Lên bông 
Mac Lagan Thymol Ðục 
Kunkel ZnSO4 Kết tủa 
Wunderley CdSO4 Kết tủa 
3. Rối loạn sinh tổng hợp protid 
Nội dung của rối loạn tổng hợp protid rất rộng, phần này chỉ nêu 
một vài rối loạn ở gen cấu trúc hoặc gen điều hòa. Trong rối loạn về gen 
cấu trúc, bản chất của protid được tạo thành bị biến tính do vậy chức năng 
không bình thường. Trong rối lọan về gen điều hòa, số lượng protid được 
tạo thành thay đổi nên cũng gây rối loạn chức năng. 
3.1. Rối loạn về gen cấu trúc 
Gen cấu trúc trong ADN với trình tự nghiêm ngặt các bộ ba 
nucleotid quyết định thứ tự các acid amin trong chuỗi polypeptid của 
protein. Mỗi acid amin ứng với một bộ ba nhất định. Chỉ cần thay đổi một 
acid amin cũng đủ gây biến tính protid. Acid amin thay đổi là do đột biến 
ở bộ ba nucleotid mã cho acid amin tương ứng. Ví dụ bệnh hemoglobin S 
(bệnh hồng cầu hình liềm). 
 Hemoglobin A1 cấu tạo bởi 4 nhóm hem kết hợp với 4 chuỗi 
polypeptid (2 chuỗi alpha và 2 chuỗi beta). Chuỗi alpha gồm 141 acid 
amin, chuỗi beta gồm 146 acid amin. Tại vị trí số 6 của chuỗi polypeptid 
beta là acid glutamic, nếu bị thay thể bởi valin thì hemoglobin A1 trở 
thành hemoglobin S. Sai sót này là do đột biến tại gen cấu trúc, thymin bị 
thay bằng adenin làm cho bộ ba nucleotid CTC (mã cho acid glutamic) trở 
 65 
thành CAC (mã cho valin). 
Bảng 7.4: Ðột biến điểm tại gen cấu trúc trong bệnh hemoglobin S 
 HbA HbS 
DNA CTC CAC 
Chuỗi bêta Glu Val 
Hồng cầu mang HbS có dạng hình liềm khi bị thiếu oxy, khó di 
chyển qua các mao mạch nhỏ dễ gây thiếu máu cục bộ và dễ vỡ gây thiếu 
máu. Dạng đồng hợp tử gây bệnh nặng, thường gặp tại các nước châu Phi. 
3.2. Rối loạn về gen điều hòa 
Gen điều hoà có thể kích thích hoặc ức chế tổng hợp protid bằng 
cách tiết một chất kìm hảm. Nếu hoạt động của gen điều hoà bị rối loạn thì 
có sự thay đổi về mức độ sao chép từ gen cấu trúc dẫn đến tăng hoặc giảm 
số lượng protid được tổng hợp. 
Ví dụ trong bệnh hemoglobin F, số lượng hemoglobin F tăng cao trong 
máu trên 30%. 
Tỉ lệ hemoglobin A1 (2 chuỗi alpha và 2 chuỗi beta) là 97%, 
hemoglobin A2 (2 chuỗi alpha và 2 chuỗi delta) là 2%, hemoglobin F (2 
chuỗi alpha và 2 chuỗi gamma) là 1%. Gen mã cho chuỗi alpha nằm trên 
nhiễm sắc thể số 16, các gen mã cho các chuỗi beta, gamma và delta cùng 
nằm trên nhiễm sắc thể số 11. 
Bình thường khi còn trong thời kỳ bào thai, gen mã cho chuỗi beta 
bị ức chế, gen mã cho chuỗi gamma hoạt động mạnh nhất nên hemoglobin 
F là hemoglobin chính trong hồng cầu thai nhi. Hemoglobin F có ái lực 
cao đối với oxy giúp cơ thể thai nhi dễ thu nhận oxy từ máu mẹ, thích nghi 
với tình trạng thiếu oxy trong đời sống ở tử cung. Sau khi sinh, gen 
gamma bị ức chế, gen bêta được giải ức chế, cơ thể giảm tạo hemoglobin 
F, tăng tạo hemoglobin A cho đến tháng thứ 6 thì tỉ lệ tương tự như người 
trưởng thành, phù hợp với môi trường mới. Ở người bị bệnh hemoglobin 
F, do gen gamma không bị ức chế nên tiếp tục tạo hemoglobin F. Hồng 
cầu mang hemoglobin F dễ vỡ gây thiếu máu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Văn Ðình Hoa. 2002. Rối loạn chuyển hóa protid. Trong: Sinh lý bệnh 
học (Nguyễn Ngọc Lanh chủ biên). Trang: 72-80. NXB Y học, Hà Nội. 
 66 
2. Blinder HJ. 2001. Disorders of absorption. Harrison’s Priciples of 
Internal Medecine, pp 1666-1678. McGraw-Hill. USA. 
3. Dwyer J. 2001. Nutritional requirements and dietary assessment. 
Harrison’s Priciples of Internal Medecine, pp 451-454. McGraw-Hill. 
USA. 
3. Longo N. 2001. Inherited disorders of amino acid metabolism. 
Harrison’s Priciples of Internal Medecine, pp 2301-2309. McGraw-Hill. 
USA. 
4. Longo N. 2001. Inherited defects of membrane transport. Harrison’s 
Priciples of Internal Medecine, pp 2309-2316. McGraw-Hill. USA. 
 67 
Chương 8 
Rối loạn cân bằng nước-điện giải 
I. Đại cương 
1. Nước 
Nước là tối cần thiết cho cơ thể con người, mọi quá trình sinh học và 
hóa học của tế bào và tổ chức đều liên quan mật thiết với đặc tính của 
nước. Cơ thể không thể phát triển và tồn tại nếu không có nước.Thiếu 
nước hoặc rối loạn phân bố nước giữa các khu vực trong cơ thể có thể đưa 
đến tử vong nếu không điều chỉnh một cách kịp thời. 
1.1. Phân bố nước 
Nước chiếm khoảng 50% trọng lượng cơ thể ở phụ nữ và 60% trọng 
lượng cơ thể ở đàn ông. Sự khác biệt này là do tỉ lệ mô mỡ ở phụ nữ cao 
hơn đàn ông. Nghĩa là tăng thành phần mỡ sẽ làm giảm tỉ lệ phần trăm 
nước trong cơ thể. Tỷ lệ nước cũng thay đổi theo quá trình sống: Ở trẻ em 
nước chiếm 75% trọng lượng cơ thể, người già chỉ còn 50%. Nước trong 
cơ thể được chia thành 2 khu vực chủ yếu: Khu vực nội bào nước chiếm 
55 - 75%, ngoại bào: 25 - 45%. Khu vực ngoại bào bao gồm nước trong 
lòng mạch ( huyết tương) và ngoài lòng mạch với tỉ lệ 1/3 . 
 Bảng 8.1: Phân bố nước giữa các khu vực và tổ chức 
Thành phần ml/kg trọng lượng % nước toàn cơ thể 
Nước nội bào 330 55 
Nước ngoại bào 
Nước của huyết tương 
Dịch kẽ 
Ở tổ chức liên kết 
Ở xương 
Dịch não tủy, dịch bài tiết 
270 
45 
120 
45 
45 
15 
45 
7,5 
20,0 
7,5 
7,5 
2,5 
Tổng cộng 600 100 
1.2. Cân bằng nước 
Áp lực thẩm thấu (ALTT) huyết tương bình thường là từ 275-
290mOsm/kg. Ở trạng thái cân bằng lượng nước nhập và xuất là cân bằng 
nhau. Những bất thường trong cân bằng này sẽ đưa đến giảm hoặc tăng 
Natri máu. Ở người bình thường có sự mất nước bắt buộc qua nước tiểu, 
phân, bay hơi qua da và hô hấp. Mất nước do bay hơi qua da và hô hấp 
góp phần điều hòa thân nhiệt. Mất nước qua thận gắn liền với việc bài xuất 
 68 
tối thiểu 600mOsm mỗi ngày. Biết rằng áp lực thẩm thấu nước tiểu tối đa 
là 1200mOsm/kg, như vậy nước tiểu tối thiểu là 500ml mỗi ngày. 
 Bảng 8.2: Bilan nước cơ thể người trong 24 giờ. 
Nhập/24 giờ Xuất/ 24giờ 
Nước uống : 1000- 1500ml Nước tiểu: 1000-1500ml 
Nước trong thức ăn: 700ml Nước qua da và hô hấp: 900ml 
Nước nội sinh( do oxy hóa): 300ml Nước qua phân: 100ml 
Tổng cộng: 2000-2500ml Tổng cộng: 2000-2500ml 
Nhập: Kích thích chủ yếu của sự nhập nước là khát, xuất hiện khi áp 
lực thẩm thấu hiệu quả tăng hoặc thể tích ngoại bào hay huyết áp giảm. 
Thông thường sự nhập nước cao hơn nhu cầu sinh lý. 
Xuất: Sự bài tiết nước được điều hòa một cách rất tinh tế. Yếu tố 
chính quyết định sự bài tiết nước qua thận là arginine-vasopressin( AVP 
hay ADH), một polypeptide được tổng hợp bởi vùng dưới đồi và được tiết 
bởi phần sau của tuyến yên. Liên kết của AVP lên receptor V2 của màng 
tế bào ống góp sẽ hoạt hóa adenyl cyclase và đưa đến sự tái hấp thụ thụ 
động nước theo gradient thẩm thấu. Sự tiết AVP được kích thích bởi tăng 
trương lực. Biết rằng các chất hòa tan chính ở ngoại bào là các muối của 
Natri, áp lực thẩm thấu hiệu quả được quyết định chủ yếu bởi nồng độ 
Natri trong huyết tương. Một sự tăng hoặc giảm trương lực sẽ được phát 
hiện bởi các receptor thẩm thấu ở vùng dưới đồi như tương ứng một sự 
giảm hoặc tăng thể tích của tế bào ,có nghĩa là tăng hay giảm tiết AVP. 
Ngưỡng thẩm thấu đối với sự giải phóng AVP là từ 280 - 290mOsm/kg và 
hệ thống này đủ nhạy cảm để ngăn chặn mọi thay đổi của áp lực thẩm thấu 
từ 1-2%. 
1.3. Các nguyên lý cơ bản của sự dịch chuyển nước trong cơ thể. 
1.3.1. Nguyên lý cơ bản của sự thẩm thấu. 
Thẩm thấu là sự khuếch tán đơn thuần của nước từ nơi có nồng độ 
cao đến nơi có nồng độ thấp. Một chất hòa tan thêm vào nước làm giảm 
nước trong hỗn hợp. Nồng độ chất hòa tan tăng thì nồng độ nước giảm và 
ngược lại. Trong cơ thể sự di chuyển của nước qua lại giữa các màng tuân 
theo cân bằng Donnan, nghĩa là nước sẽ đi từ nơi có ALTT thấp đến nơi 
có ALTT cao hơn. 
1.3.2. Sự trao đổi giữa gian bào và tế bào 
Gian bào là khu vực đệm giữa lòng mạch và tế bào, nhờ vậy những 
biến động lớn từ lòng mạch không ảnh hưởng trực tiếp ngay đến khu vực 
 69 
tế bào . Màng tế bào ngăn cách hai khu vực này không để các ion tự do 
khuếch tán qua lại, do vậy thành phần điện giải giữa hai khu vực này hoàn 
toàn khác nhau. Na+ có nồng độ rất cao ở gian bào, có thể khuếch tán qua 
tế bào nhưng bị tế bào tích cực bơm ra với chi phí năng lượng của ATP. 
Tương tự như vậy, nồng độ K+ trong tế bào gấp 30 lần gian bào. 
Như vậy thành phần điện giải hai bên rất khác nhau nhưng tổng 
lượng chúng lại tương đương nhau nên áp lực thẩm thấu(ALTT) hai bên 
vẫn ngang bằng nhau. Nếu ALTT chênh lệch, nước sẽ trao đổi để lập lại 
cân bằng về ALTT. Chẳng hạn nếu đưa 4g NaCl vào cơ thể thì 3g sẽ vào 
gian bào và như thế sẽ làm tăng ALTT ở gian bào. Na+ và Cl- không vào 
được tế bào, vậy nước trong tế bào sẽ đi ra gian bào để cân bằng ALTT. 
Khi có rối loạn vận chuyển nước qua màng tế bào, tổn thương hoặc rối 
loạn hoạt đông của màng tế bào sẽ đưa đến những tình trạng bệnh lý khác 
nhau như mất nước tế bào, ứ nước tế bào... 
1.3.3. Sự trao đổi giữa gian bào và lòng mạch. 
 Vách mao mạch là màng ngăn cách giữa gian bào và lòng mạch. 
Màng này có những lỗ nhỏ cho phép nước điện giải và các phân tử có 
trọng lượng phân tử bé hơn 68000 khuếch tán qua lại một cách tự do. Vì 
vậy bình thường Protein trong lòng mạch cao hơn hẳn trong dịch gian bào 
còn thành phần điện giải thì tương đương nhau . Trên thực tế, thành phần 
điện giải giữa chúng có hơi khác biệt chút ít vì Protein mang điện tích âm 
nên đẩy một số anion sang gian bào (Cl-, HCO3-) và hấp dẫn một số 
cation (Na+, Ca++). Tuy vậy, khi cân bằng Donnan đã được xác lập thì 
tổng lượng điện giải giữa hai khu vực vẫn tương đương. Do đó ALTT hai 
bên bằng nhau. Khi mất cân bằng về khối lượng nước và điện giải giữa hai 
khu vực này, sẽ có sự trao đổi cả nước lẫn điện giải để thiết lập lại cân 
bằng. 
Vai trò của áp lực thủy tĩnh(Ptt) và ALTT trong trao đổi nước giữa 
hai khu vực: Áp lực thủy tĩnh do sức co bóp của tim tạo nên. Càng xa tim 
áp lực này càng giảm dần, cho đến tận đầu mao mạch Ptt còn 40mmHg, ở 
giữa mao mạch là 28mmHg và ở hậu mao mạch Ptt còn lại bằng 16mmHg 
. Protein trong lòng mạch( chủ yếu alb) tạo một ALTT keo(Pk) có giá trị 
28mmHg có xu hướng kéo nước từ gian bào vào lòng mạch. Ở trạng thái 
bình thường của cơ thể, áp lực thủy tĩnh ở đầu mao mạch lớn hơn áp lực 
keo nên có tác dụng đẩy nước ra khỏi lòng mạch để khuếch tán vào các 
mô. Ở hậu mao mạch, Ptt bé hơn Pk nên nước sẽ đựơc kéo vào lòng mạch 
trở lại. Sự cân bằng giữa hai áp lực này làm cho lượng nước đi vào và đi ra 
khỏi mao mạch tương đương nhau(cân bằng Starling). Khi mất cân bằng 
trên hay mao mạch tăng thấm với protein thì cân bằng này sẽ bị phá vỡ . 
 70 
1.4. Điều hòa cân bằng nước 
1.4.1. Điều hòa thẩm thấu. 
 Để bảo vệ tế bào trước những thay đổi của ALTT và những thay 
đổi thể tích tế bào và cũng như vì giữa khu vực nội bào và khu vực ngoại 
bào không có cùng một gradient thẩm thấu nên cơ thể phải điều hòa áp lực 
thẩm thấu ở khu vực ngoại bào. Áp lực thẩm thấu huyết tương bình 
thường từ 275-290mOsm/kg. Sở dĩ ALTT được duy trì giữa giá trì bình 
thường này nhờ có cơ chế cực nhạy của các receptor thẩm thấu ở vùng 
dưới đồi có khả năng phát hiện sự thay đổi trương lực dù nhỏ từ 1- 2% để 
điều chỉnh một cách kịp thời. Các receptor thẩm thấu này sẽ được kích 
thích khi có sự tăng trương lực (các chất thẩm thấu không hiệu quả chẳng 
hạn như urê hay glucose không đóng một vai trò gì trong kích thích khát). 
Ngưỡng thẩm thấu trung bình của kích thích khát là khoảng 295mOsm/kg 
nhưng còn thay đổi tùy theo người. 
- Tăng ALTT sẽ kích thích sự giải phóng ADH ở thùy sau tuyến yên 
và kích thích trung tâm khát ở vùng dưới đồi và gây cảm giác khát. Sự 
tăng tái hấp thu nước ở ống lượng xa và ống góp dưới tác dụng của ADH 
cùng với sự tăng nhập nước do khát sẽ làm bình thường hóa được áp lực 
thẩm thấu và tăng thể tích ngoại bào. 
- Ngược lại, giảm ALTT sẽ ức chế sự tiết ADH dẫn đến tăng bài tiết 
nước. 
 Thực tế thiếu ADH sự bài tiết nước tiểu sẽ tăng từ 15- 20l với 40-
80mosmol/kg nước mỗi ngày. Sự bài tiết tối đa ADH sẽ làm giảm bài tiết 
nước tiểu xuống còn 0,5l với 800-1400 mosmol/kg nước mỗi ngày. 
Vì vậy thay đổi ALTT sẽ được điều hòa trước hết bằng cách điều 
chỉnh thành phần nước. 
1.4.2. Điều hòa thể tích: 
1.4.2.1. Điều hòa thể tích thông qua các receptor nhận cảm áp lực tại thận( 
qua hệ thống RAA: renin angiotensin aldosteron) 
Một thể tích ngoại bào xác định cần thiết để duy trì vòng tuần hoàn 
và trao đổi chất trong cơ thể là không phụ thuộc vào tình trạng thẩm 
thấu(tỷ lệ tương quan). Các receptor nhận cảm áp lực ở bộ máy cạnh cầu 
thận là những cảm thụ quan trọng đối với thể tích khu vực ngoại bào. Khi 
giảm áp lực cục bộ, nó sẽ giải phóng renin vào máu. Renin sẽ chuyển 
Angiotensinogen do gan sản xuất thành Angiotensin I. Sau đó Angiotensin 
I sẽ được chuyển thành Angiotensin II nhờ tác dụng của men ACE 
(Angiotensin converting enzyme) và phát huy tác dụng: 
- Làm tăng huyết áp 
 71 
- Kích thích khát gây uống nước 
- Kích thích thượng thận tăng bài tiết Aldosteron. 
- Aldosteron tăng tái hấp thu Natri ở ống lượng xa và dẫn đến tăng 
ALTT ngoại bào. Điều này lại tiếp tục kích thích tuyến yên tăng tiết ADH 
và vùng dưới đồi gây cảm giác khát. 
1.4.2.2. Điều hòa thể tích thông qua các receptor nhận cảm áp lực tại tiểu 
nhĩ. 
Năm 1986 Ackermann đã phát hiện ra rằng tế bào cơ của tiểu nhĩ có 
thể tổng hợp một peptid có tác dụng tăng đào thải Natri qua đường niệu 
gọi là ANP (atrial natriuretic peptid) khi tâm nhĩ căng hoặc tăng áp lực 
tĩnh mạch trung tâm hay sau ăn (do tăng gánh Natri). Ngày nay người ta 
nhận thấy ANP có tác dụng: 
- Tăng thải Natri qua ống thận 
- Lợi tiểu do ức chế sự bài tiết ADH và Aldosteron. 
- Giảm huyết áp (do giảm nhạy cảm của cơ trơn mạch máu đối với 
các chất co mạch) 
- Tăng tốc độ lọc cầu thận. 
Ngoài hai cơ chế kích thích chính này năm 1988 Schrier cũng phát 
hiện thêm rằng trong cơ thể còn có những receptor áp lực ở khu vực tĩnh 
mạch ngực và xoang cảnh. Nó cũng có thể kích thích tăng tiết ADH qua 
cơ chế thần kinh. Tuy nhiên sự nhạy cảm của các receptor này thấp hơn 
nhiều so với sự nhạy cảm của các receptor thẩm thấu. Sự thay đổi thể tích 
tuần hoàn hiệu quả( ở động mạch), nôn, đau, stress, giảm Glucose máu, 
thai nghén và một số thuốc có thể kích thích qua các réceptor áp lực của 
xoang cảnh. 
Mặt khác trên thực nghiệm sau một tăng gánh muối S.Valdes cũng 
đã tìm thấy một chất Digoxin- like có tác dụng kìm hãm Na+- K+- 
ATPase và tăng đào thải Natri qua nước tiểu. 
Như vậy thay đổi thể tích ngoại bào sẽ được điều hòa trước hết qua 
sự điều chỉnh thành phần Natri. 
1.4.2.3. Cơ chế điều khiển ngược Macula- Densa của thận 
Đây là một cơ chế điều khiển ngược trong thận để điều hòa tốc độ 
lọc cầu thận, bảo đảm khối lượng tuần hoàn cho cơ thể. 
Bộ máy cạnh cầu thận có những tế bào Macula- Densa ở đoạn đầu 
ống lượng xa. Khi huyết áp tăng sẽ làm tăng áp lực thuỷ tĩnh cầu thận do 
đó làm tăng tốc độ lọc cầu thận và làm tăng luồng nước tiểu trong ống 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bia_baigiangyhoc_blogspot_com_1_7397.pdf bia_baigiangyhoc_blogspot_com_1_7397.pdf