Giáo trình Tài chính tiền tệ - Bùi Thị Phương Linh

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH

Tóm tắt chương 1

Chương 1 trình bày những vấn đề cơ bản của tài chính như sự ra đời và phát triển của

tài chính, bản chất của tài chính, các chức năng của tài chính, hệ thống của tài chính và vai

trò của tài chính trong nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

Mục tiêu:

Trình bày được bản chất, chức năng và hệ thống tài chính.

Trình bày được vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường.

1.1 Sự ra đời và phát triển của tài chính

1.1.1 Khái niệm tài chính

Hiện nay, nghiên cứu về tài chính có rất nhiều nhà nghiên cứu thực hiện và cũng đưa

ra nhiều khái niệm về tài chính. Theo quan điểm của P.J.Drake tiếp cận tài chính theo hai

quan điểm, theo nghĩa hẹp, tài chính đơn thuần phản ánh hoạt động thu, chi tiền tệ của chính

phủ; còn theo nghĩa rộng hơn, tài chính phản ánh các khoản vay và cho vay ảnh hưởng đến

mức cung tiền trên thị trường.

Theo quan điểm kinh tế học hiện đại, tài chính biểu thị vốn dưới dạng tiền tệ, nghĩa là

ở dạng các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua thị trường tài chính hay định

chế tài chính. Tóm lại, có hai quan điểm chính về tài chính, quan điểm thứ nhất, đưa ra khái

niệm về tài chính dựa vào hoạt động tài chính của chính phủ và quan điểm thứ hai đưa ra khái

niệm về tài chính trên cơ sở vốn dưới dạng tiền tệ, cụ thể như sau:

- Quan điểm 1: Tài chính phản ánh hoạt động thu – chi của chính phủ; hoặc phản ánh

các khoản vay và cho vay.

- Quan điểm 2: Tài chính là vốn dưới dạng tiền tệ; tức là sự tạo lập và sử dụng quỹ

tiền tệ để đáp ứng nhu cầu khác nhau.

1.1.2 Đặc điểm của tài chính

Theo cách tiếp cận: Tài chính là vốn dưới dạng tiền tệ, tài chính có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, tài chính là nguồn lực thể hiện dưới dạng tiền tệ, được chấp nhận trên thị

trường là công cụ trao đổi hay chuyển giao giá trị: tiền mặt, tiền gửi và các loại tài sản tài

chính.

Thứ hai, tài chính thể hiện quan hệ chuyển giao giữa các chủ thể trong nền kinh tế: từ

người có vốn đến người cần vốn.

Thứ ba, tài chính là những quan hệ trong đó diễn ra sự chuyển giao nguồn lực giữa các

chủ thể tài chính với nhau.Trang 2

1.1.3 Lịch sử ra đời tài chính

Khi nền sản xuất hàng hóa ra đời thì quan hệ trao đổi hàng hóa – tiền tệ đóng vai trò

quyết định trong quá trình trao đổi. Quá trình trao đổi chính là quá trình phân phối tạo ra

nguồn tài chính cho chủ thể trong nền kinh tế. Quá trình sản xuất liên tục làm cho nguồn tài

chính luôn được tạo lập – phân phối – sử dụng và từ đó khái niệm tài chính hình thành.

Ngày nay, tài chính trở thành một khoa học nghiên cứu cách thức mà chủ thể kinh tế

xác lập, phân phối và sử dụng nguồn tài chính của mình. Trong nền kinh tế có nhiều chủ thể

kinh tế và tương ứng với mỗi chủ thể ta có một lĩnh vực nghiên cứu, cụ thể là:

- Chủ thể là cá nhân, ta có lĩnh vực tài chính cá nhân.

- Chủ thể là doanh nghiệp, ta có lĩnh vực tài chính doanh nghiệp.

- Chủ thể là nhà nước, ta có lĩnh vực tài chính công.

Mỗi chủ trong nền kinh tế khi hoạt động đều có mục tiêu riêng và các chủ thể này sẽ

sử dụng các công cụ khác nhau để đạt mục tiêu ấy.

pdf166 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 148 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Tài chính tiền tệ - Bùi Thị Phương Linh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển sang phải, từ sang .  Giá trái phiếu tăng từ lên , thiết lập mức cân bằng mới là + Khi thu nhập bình quân nền kinh tế giảm  Đường cầu trái phiếu di chuyển sang trái, từ sang .  Giá trái phiếu giảm từ xuống , thiết lập mức cân bằng mới là - Thị trường quỹ cho vay ban đầu cân bằng tại điểm , tương ứng với mức giá . + Khi thu nhập tăng  Khả năng cho vay của người cho vay tăng. Đường cung cho vay dịch chuyển sang phải, từ sang  Lãi suất giảm từ xuống , thiết lập mức cân bằng mới là + Khi thu nhập giảm  Khả năng cho vay của người cho vay giảm. Đường cung dịch chuyển sang trái, từ sang  Lãi suất tăng từ lên , thiết lập mức cân bằng mới là Trang 113 * Lợi tức đối với các loại tài sản khác - Một sự gia tăng lợi tức kỳ vọng đối với tài sản khác sẽ làm giảm nhu cầu về trái phiếu, khi đó đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang trái, giá cả trái phiếu giảm, lãi suất tăng. - Một sự giảm lợi tức kỳ vọng đối với tài sản khác sẽ làm tăng nhu cầu về trái phiếu, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu tăng, lãi suất giảm. * Lạm phát kỳ vọng - Lạm phát kỳ vọng tăng thì cầu về trái phiếu có xu hướng giảm, đường cầu trái phiếudịch chuyển sang trái, giá trái phiếu giảm, lãi suất tăng. - Lạm phát kỳ vọng giảm thì cầu về trái phiếu có xu hướng tăng, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu tăng, lãi suất giảm. * Rủi ro đầu tư vào trái phiếu - Tác động của rủi ro đối với nhu cầu về trái phiếu + Nếu đầu tư trái phiếu có rủi ro cao hơn so với các loại tài sản khác thì khi đó nhu cầu trái phiếu giảm, đường cầu dịch chuyển sang trái, giá trái phiếu giảm. + Nếu đầu tư trái phiếu có rủi ro thấp hơn so với các loại tài sản khác thì nhu cầu trái phiếu tăng, đường cầu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu tăng. - Tác động của rủi ro đối với thị trường quỹ cho vay + Nếu đầu tư vào trái phiếu có rủi ro thấp thì người cho vay sẽ tăng cho vay, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải, lãi suất giảm. + Nếu đầu tư vào trái phiếu có rủi ro cao thì người cho vay sẽ giảm cho vay, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng. * Tính lỏng của trái phiếu - Trái phiếu có tính lỏng cao thì nhu cầu trái phiếu sẽ tăng cao, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu tăng. - Trái phiếu có tính lỏng thấp, nhu cầu trái phiếu giảm, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang trái, giá trái phiếu giảm. * Chi phí thông tin - Nếu trái phiếu có đầy đủ và minh bạch thông tin thì nhu cầu về trái phiếu sẽ tăng lên, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu tăng. - Nếu trái phiếu không có đầy đủ thông tin thì nhu cầu về trái phiếu sẽ giảm, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang trái, giá trái phiếu giảm. - Trong thị trường quỹ cho vay, chi phí thông tin càng thấp sẽ làm tăng tính sẵn lòng của người vay vốn, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải, lãi suất giảm xuống. Trang 114 Ngược lại, chi phí thông tin càng cao sẽ làm giảm tính sẵn lòng của người vay vốn, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng. Tóm lại: Nếu những nhân tố làm dịch chuyển đường cầu trái phiếu sang phải, thì sẽ làm giá trái phiếu tăng, đồng thời đường cung quỹ cho vay dịch sang phải, làm lãi suất giảm. Nếu những nhân tố làm dịch chuyển đường cầu trái phiếu sang trái, thì sẽ làm giá trái phiếu giảm, đường cung quỹ cho vay dịch sang trái, làm lãi suất tăng. b. Các nhân tố làm thay đổi đường cung trái phiếu và quỹ cho vay *Lợi nhuận kỳ vọng của vốn đầu tư E0 E2 Bs2 Bs0 Bd Nhu cầu phát hành trái phiếu giảm Nhu cầu phát hành trái phiếu tăng E1 Giá cả P ($) Khối lượng giá trị trái phiếu B ($) P1 P0 P2 Bs1 i2 i0 i1 Ld2 Ld0 E0 E1 E2 Nhu cầu vay nợ tăng Nhu cầu vay nợ giảm Lãi suất i (%) Qũy cho vay L ($) Hình 5.5a: Cung – cầu trái phiếu Hình 5.5b: Cung – cầu quỹ cho vay Hình 5.5 a cho thấy nếu lợi nhuận kỳ vọng cao thì công ty sẽ muốn vay vốn nhiều hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang phải từ đến , giá trái phiếu giảm từ đến . Hình 5.5 b cho thấy trong thị trường quỹ cho vay, lợi nhuận kỳ vọng gia tăng sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn. Đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải từ lên , lãi suất tăng từ đến . * Chính sách thuế - Công ty được ưu đãi về thuế Nếu công ty được ưu đãi về thuế, điều này tác động đến lợi nhuận của công ty, công ty sẽ sẵn lòng phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang phải đến , giá trái phiếu giảm từ xuống . Trang 115 Trong thị trường quỹ cho vay, giảm thuế có thể sẽ làm tăng nhu cầu vay mượn vốn của các công ty, đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải, từ đến và lãi suất tăng từ đến . - Công ty bị đánh thuế cao Nếu công ty bị đánh thuế cao, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang trái từ đến , giá trái phiếu tăng từ đến . Trong thị trường quỹ cho vay, gánh nặng thuế công ty càng cao làm giảm đi nhu cầu vay vốn của công ty. Đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang trái xuống và lãi suất giảm từ xuống . * Lạm phát kỳ vọng - Lạm phát kỳ vọng cao, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang phải từ phải đến , giá trái phiếu giảm đến . - Trong thị trường quỹ cho vay, lạm phát kỳ vọng cao làm tăng nhu cầu vay vốn của người đi vay, đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải từ lên , lãi suất tăng từ đến . * Vay nợ của chính phủ Vay nợ của chính phủ tăng sẽ làm cho đường cung trái phiếu dịch chuyển sang phải, giá trái phiếu giảm. Tóm lại: Nếu những nhân tố làm dịch chuyển đường cung trái phiếu sang phải, thì sẽ làm giá trái phiếu giảm, đồng thời cũng làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay sang phải, lãi suất tăng. Nếu những nhân tố làm dịch chuyển đường cung trái phiếu sang trái, thì sẽ làm giá trái phiếu tăng, đồng thời cũng làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay sang trái, làm lãi suất giảm. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 5 1. Trình bày khái niệm của trung gian tài chính? Trình bày vai trò của trung gian tài chính? 2. Trình bày các loại hình của định chế phi ngân hàng? 3. Giải thích vì sao nếu thị trường có hiện tượng thông tin bất cân xứng thì sẽ dẫn đến hiện tượng lựa chọn đối nghịch? 4. Giải thích vì sao khi lợi tức kỳ vọng đối với tài sản khác tăng thì làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm? Trang 116 5. Giải thích vì sao trái phiếu có tính lỏng càng cao thì giá trái phiếu có xu hướng tăng? Trang 117 Chương 6. NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG Tóm tắt chương 6 Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ, thể hiện vai trò rất quan trọng: vai trò điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, vai trò thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, vai trò ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia, vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương ra đời xuất phát từ đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hóa, cùng với yêu cầu của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của Nhà nước nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ - tín dụng, ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của lưu thông tiền tệ để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Mục tiêu: Trình bày được các mô hình tổ chức, chức năng và vai trò của ngân hàng trung ương. Trình bày được chính sách tiền tệ và các công cụ ngân hàng trung ương sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ. Phân tích được việc ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. 6.1. Quá trình ra đời và bản chất của ngân hàng Trung ƣơng 6.1.1 Khái quát quá trình ra đời của Ngân hàng trung ương: Quá trình hình thành ngân hàng trung ương ở các nước khác nhau là một quá trình lâu dài và thường là đa dạng, do ở mỗi nước có những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội. Nhìn chung sự ra đời của Ngân hàng trung ương được phát triển theo một trật tự nhất định. Thời kỳ đầu (từ khoảng thế kỷ 12 đến thế kỷ 18) ở hầu hết các nước Châu Âu, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ lần lượt ra đời, nói chung thực hiện những chức năng tương tự nhau, bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, phát hành kỳ phiếu của ngân hàng mình vào lưu thông, thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác. Về sau (từ khoảng thế kỷ 18 và thế kỷ 19) do quy mô và phạm vi lưu thông hàng hóa được mở rộng, trong lưu thông có quá nhiều loại kỳ phiếu ngân hàng tư nhân đã gây cản trở cho giao lưu và phát triển kinh tế. Do đó, nhà nước của các nước đã bắt đầu can thiệp vào hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Nhà nước ban hành luật lệ chỉ cho phép một hoặc một số ngân hàng có năng lực tài chính lớn và có tín nhiệm hơn cả được thực hiện chức năng phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Từ đó hệ thống ngân hàng được phân định thành 2 loại: Trang 118 - Những ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành. Đây là những ngân hàng lớn, có uy tín, tài chính vững mạnh. Ngân hàng phát hành giảm dần và đi đến không giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với các ngân hàng trung gian. - Những ngân hàng không được phép phát hành tiền được gọi chung là ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung gian giao dịch với công chúng, thực hiện kinh doanh tiền tệ thuần túy. Tuy nhiên số ngân hàng được phép phát hành tiền ở từng nước cũng còn tới hàng chục ngân hàng, đều thuộc sở hữu tư nhân. Sẽ không có gì đảm bảo rằng những tư nhân này sẽ không đưa ra những chính sách có hại cho quốc gia, cho nền kinh tế khi mà quyền lợi cá nhân của họ bị đe dọa hoặc là mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Tức là, việc ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân sẽ không cho phép Nhà nước có thể can thiệp một cách thường xuyên và kịp thời vào hoạt động kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ (Nhà nước không thể chủ động kiểm soát được khối lượng tiền phát hành, không có điều kiện can thiệp vào hoạt động của hệ thống tài chính để điều khiển kinh tế thông qua tác động của tiền tệ ). Vì vậy, từ khoảng đầu thế kỷ 19 trở đi, lần lượt các nước đã tiến hành thành lập ngân hàng phát hành do Nhà nước quản lý, thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền phát hành tiền để thông qua ngân hàng này, Nhà nước có thể chủ động việc kiểm soát phát hành tiền và điều tiết khối lượng tiền cung ứng, phục vụ cho quản lý và phát triển kinh tế. Đặc biệt từ sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 và sau thế chiến lần thứ hai phần lớn các nước đều tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng phát hành chuyển thành sở hữu của nhà nước. Đây chính là quá trình hình thành ngân hàng phát hành và xác lập cho ngân hàng này chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, được gọi là Ngân hàng trung ương. Việc quốc hữu hóa ngân hàng phát hành được thực hiện bằng cách Nhà nước bỏ tiền ra mua lại toàn bộ cổ phiếu của ngân hàng phát hành.Toàn bộ hội viên của hội đồng quản trị và bộ máy lãnh đạo điều hành, thanh tra, kiểm soát đều do nhà nước bổ nhiệm trên cơ sở cơ cấu cũ trước khi quốc hữu hóa. Như vậy sự ra đời của ngân hàng trung ương là hệ quả của quá trình chuyển hóa ngân hàng thương mại thành ngân hàng phát hành, và ngân hàng phát hành thành ngân hàng trung ương gắn liền với sự can thiệp của Nhà nước trên lĩnh vực này. Sự ra đời của ngân hàng trung ương xuất phát từ đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hóa, cùng với yêu cầu của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. Nó ra đời không vì mục đích tìm kiếm doanh lợi, mà xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, thực hiện nhiệm vụ ổn định tiền tệ, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả để phát triển kinh tế. Dù tên gọi không giống nhau như Quỹ dự trữ liên bang, Ngân hàng nhà nước, viện phát hành, chúng đều có chung một tính chất: Ngân hàng trung ương. Trang 119 Hiện nay, ở một số nước ngân hàng trung ương không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như một ngân hàng của nhà nước và cơ quan quản lý cao nhất của nó là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm. Chẳng hạn: Ngân hàng trung ương Nhật Bản là ngân hàng cổ phần (nhà nước chiếm 55%) nhưng cơ quan quản trị ngân hàng có 7 thành viên do chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ là ngân hàng cổ phần với hội đồng thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Quốc hội bổ nhiệm, 6.1.2 Bản chất của ngân hàng Trung ương - Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành công quản có thể biệt lập hay phụ thuộc Chính Phủ. - Ngân hàng trung ương độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng . - Ngân hàng trung ương thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh lực tiền tệ - tín dụng – ngân hàng. - Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ để điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thông ngân hàng. - Ngân hàng trung ương không giao dịch với công chúng, chỉ giao dịch với kho bạc và NHTG. 6.2. Mô hình tổ chức ngân hàng Trung ƣơng: Sự ra đời của ngân hàng trung ương là do yêu cầu khách quan của việc quản lý phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng với nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ đó, ngân hàng trung ương phải chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó ngân hàng trung ương có vị trí đặc biệt trong bộ máy quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Cho đến nay trên thế giới có 2 mô hình tổ chức ngân hàng trung ương: 6.2.1 Ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ Theo mô hình này, Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của Ngân hàng trung ương, đặc biệt là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô hình này được xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực thi chính sách tài chính quốc gia, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Để ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ sẽ bị Chính phủ lạm dụng công cụ phát hành tiền để trang trải sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước, từ đó dễ gây ra lạm phát. Mặt khác ngân hàng trung ương mất hẳn tính độc lập và chủ động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Tiêu biểu cho mô hình này là Quỹ dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng dự trữ liên bang Đức. Trang 120 Ngân hàng dự trữ liên bang Đức không trực thuộc Chính phủ khi thực hiện các nghiệp vụ của mình, đồng thời có trách nhiệm ủng hộ chính sách kinh tế chung của Chính phủ. Quỹ dự trữ liên bang Mỹ: cơ quan quản lý cao nhất là hội đồng thống đốc có 7 thành viên. Thành viên của Hội đồng thống đốc không được tái nhiệm. Chính phủ khó có thể chi phối hoạt động của ngân hàng trung ương. 6.2.2 Ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ Theo mô hình này, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với ngân hàng trung ương thông qua việc bổ nhiệm các thành viên của bộ máy quản trị và điều hành ngân hàng trung ương, thậm chí Chính phủ còn can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô hình này được xây dựng trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô, do đó chính phủ phải nắm và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô. Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là một trong những công cụ chủ yếu trong tổng thể các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Chính phủ phải nắm lấy ngân hàng trung ương để sử dụng ngân hàng này trong việc thực hiện các chức năng của Chính phủ. Như vậy, ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Nhưng nó khác với tính chất quản lý của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính mà còn thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Ngân hàng trung ương có các khoản thu nhập từ các tài sản có của mình như chứng khoán chính phủ, kinh doanh trên thị trường ngoại hối, cho vay chiết khấu,Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản lý, không phải là mục đích của ngân hàng trung ương. Hầu hết các khỏan thu nhập của Ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động, đều phải nộp vào ngân sách nhà nước. 6.2.3 Hệ thống tổ chức ngân hàng Trung ương Hệ thống tổ chức của ngân hàng trung ương được bố trí theo tuyến dọc: bên trên là ngân hàng trung ương, tỏa dọc xuống là các chi nhánh trực thuộc đặt trên các địa bàn các tỉnh, thành phố. Hệ thống tổ chức này đảm bảo cho ngân hàng trung ương vận hành các hoạt động của mình một cách thông suốt, nhạy bén theo nguyên tắc tập trung thống nhất. * Về cơ chế quản trị, điều hành: Trong bộ máy quản lý, điều hành vĩ mô của Nhà nước, ngân hàng trung ương có vị trí đặc biệt, cùng với nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, cho nên việc quản trị và điều hành hoạt động của ngân hàng trung ương được thực hiện theo một cơ chế đặc biệt so với các Bộ chức năng của nhà nước. Trang 121 * Về cơ chế quản trị Hiện nay, hầu hết các nước đều thực hiện theo cơ chế lãnh đạo dưới hình thức một hội đồng. Hội đồng này được nhà nước bổ nhiệm gồm những người có chuyên môn cao, có trình độ quản lý, Chức năng chủ yếu của Hội đồng là quyết định những chủ trương, chính sách về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, chỉ đạo, giám sát các hoạt động của ngân hàng trung ương, tư vấn cho Chính phủ các vấn đề về kinh tế - tiền tệ. Đứng đầu hội đồng là chủ tịch hội đồng – thường là Thống đốc ngân hàng trung ương. Chẳng hạn: Ngân hàng dự trữ liên bang Đức: Cơ quan quản trị là hội đồng ngân hàng trung ương. Các thành viên hội đồng gồm có: Thống đốc ngân hàng liên bang, Thống đốc các ngân hàng trung ương bang. Thống đốc ngân hàng liên bang đồng thời là chủ tịch hội đồng. Quỹ dự trữ liên bang Mỹ: cơ quan quản trị là hội đồng thống đốc gồm 7 thành viên được Tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn để phục vụ trong nhiệm kỳ 4 năm. Các thành viên thường là các nhà kinh tế chuyên nghiệp hoặc những nhà ngân hàng chuyên nghiệp. Đứng đầu hội đồng này là chủ tịch hội đồng thống đốc do Thượng viện bổ nhiệm. * Về cơ chế điều hành Thống đốc ngân hàng trung ương là người trực tiếp điều hành, giúp việc cho thống đốc có một số phó thống đốc. Để thực hiện chức trách của mình, thống đốc sử dụng một bộ máy tổ chức gồm các vụ, cục, chi nhánh trực thuộc. Thống đốc là người chịu trách nhiệm trước Quốc hội hoặc Chính phủ và trước hội đồng quản trị về thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngân hàng trung ương. 6.3. Chức năng của ngân hàng Trung ƣơng 6.3.1 Độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cung ứng Khi ngân hàng trung ương ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành giấy bạc ngân hàng được tập trung vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước độc quyền phát hành tiền. Ngân hàng trung ương trở thành trung tâm phát hành tiền của đất nước. Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Đó là: * Phát hành tiền dựa vào dự trữ vàng Giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải có vàng nằm trong kho của ngân hàng làm đảm bảo. Mức đảm bảo ở mỗi nước có sự co giãn khác nhau. Nhìn chung có 3 hình thức duy trì đảm bảo sau đây: Trang 122 - Nhà nước quy định một hạn mức phát hành, khối lượng phát hành phải nằm trong hạn mức pháp định. - Nhà nước quy định tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông và không quy định mức dự trữ vàng làm đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. - Nhà nước quy định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành. * Phát hành tiền có đảm bảo bằng giá trị hàng hóa thông qua cơ chế tín dụng Việc phát hành giấy bạc được thực hiện qua cơ chế tín dụng ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị hàng hóa thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác. Điều này làm cho việc phát hành giấy bạc gắn với nhu cầu thực tế của lưu thông hàng hóa, đảm bảo cho tổng lượng tiền tệ phù hợp với tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Việc phát hành này của ngân hàng trung ương được thực hiện bằng phương pháp tái chiết khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng. Việc phát hành tiền thông qua cơ chế tín dụng có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, khối lượng tiền phát hành vào lưu thông xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do tăng trưởng kinh tế đòi hỏi. Giấy bạc ngân hàng được đảm bảo bằng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai, tạo khả năng để ngân hàng trung ương thực hiện kiểm soát khối lượng tiền tệ cung ứng theo nhu cầu của mục tiêu ổn định tiền tệ. Hiện nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra vàng theo luật định, các nước trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, với việc độc quyền phát hành tiền, Ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, Tóm lại, Ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền nước mình. 6.3.2 Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm soát quá trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của ngân hàng trung ương. a. Ngân hàng trung ương mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian Thông thường, các ngân hàng trung gian không sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay mà duy trì một mức dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Dự trữ gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Bất cứ một ngân Trang 123 hàng trung gian nào cũng đều phải mở tài khoản và gửi tiền vào ngân hàng trung ương. Tiền gửi đó gồm 2 loại: * Tiền gửi dự trữ bắt buộc Tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng bắt buộc đối với các ngân hàng trung gian có huy động vốn tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ cao hay thấp tùy theo quy định của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách tiền tệ. Mục đích của việc bắt buộc dự trữ này là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà ngân hàng trung gian có thể cung cấp, tránh trường hợp các ngân hàng trung gian huy động được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền và nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc tập trung dự trữ của ngân hàng trung gian tại ngân hàng trung ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, thực thi chính sách tiền tệ. Hiện nay, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền gửi ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền bất thường.Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường được đề cập đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ. * Tiền gửi thanh toán Ngoài tiền gửi dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian còn gửi thêm khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng trung ương.Mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên giữa các ngân hàng với nhau và để điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc khi cần. Bên cạnh đó, các ngân hàng trung gian mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng trung ương còn giúp ngân hàng trung ương có thể tận dụng nguồn vốn tạm thời dư thừa của các ngân hàng trung gian để thực hiện các chức năng của mình. b. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian Ngân hàng trung ương thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua đó để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng trung gian sử dụng vốn tập trung, huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu vay tiền ngân hàng trung ương làm phương tiện thanh toán, các ngân hàng này được ngân hàng trung ương cấp tín dụng theo nhữ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_tien_te_bui_thi_phuong_linh.pdf
Tài liệu liên quan