Trong đời sống xã hội, thế giới quan giữ vai trò rất quan trọng, vì nó 
định hướng cho mọi hoạt động của con người. Chính vì vậy mà từ quá trình 
hình thành thế giới quan một cách tự phát, con người đã chủ động để hình 
thành thế giới quan một cách tự giác. Một trong những khâu quan trọng 
nhất của quá trình này là xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống tư 
tưởng cơ bản mang tính chỉ đạo cho các quan điểm, quan niệm về thế giới.
Trên cơ sở một số vấn đề chung nhất về thế giới quan, chương “Chủ 
nghĩa duy vật mác-xít – Cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học” sẽ khái 
quát nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hệ 
tư tưởng cơ bản mang tính chỉ đạo cũng như những yêu cầu có tính nguyên 
tắc mà nó đòi hỏi đối với việc hình thành một thế giới quan khoa học.
              
                                            
                                
            
 
            
                 223 trang
223 trang | 
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) - Phần 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch nghi, đổi mới để phát triển. Chủ 
nghĩa xã hội bị suy yếu nhưng không bị tiêu diệt, mà có điều kiện, khả năng 
đổi mới và phát triển. 
Thứ tư: ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát 
triển vô cùng nhanh chóng quá trình toàn cầu hoá. Các quốc gia dân tộc 
hiện đều trở thành yếu tố thị trường thế giới thống nhất và duy nhất, Tuy 
nhiên cơ cấu kinh tế toàn cầu hiện nay là cơ cấu tư bản chủ nghĩa, do vậy 
lực lương chi phối cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay là các cường quốc, các 
trung tâm tư bản lớn, các công ty xuyên quốc gia. Lợi ích mà kinh tế thị 
trường đưa lại chủ yếu là cho các cường quốc, các công ty tư bản lớn. Điều 
đó làm cho mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản trầm trọng thêm. 
Những biến đổi trên đây không làm mất tính chất thời đại ngày nay 
là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ làm cho 
những mâu thuẫn của thời đại có những biểu hiện mới gay gắt hơn. Điều đó 
cũng ảnh hưởng sâu sắc đến vấn đề dân tộc và quan hệ giữa dân tộc với 
giai cấp trong thời đại ngày nay. Hiện nay, do sự phát triển của cách mạng 
thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc, hầu hết các dân tộc đã giành 
được độc lập về chính trị. Chủ nghĩa đế quốc không thể thống trị các dân 
tộc theo kiểu cũ nữa. Nhưng phần lớn các dân tộc trên thế giới vẫn chưa 
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mà vẫn lệ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị 
vào các nước tư bản phát triển. Điều đó cho thấy chủ nghĩa tư bản vẫn duy 
trì sự bất bình đẳng dân tộc và áp bức dân tộc, chỉ có hình thức áp bức là 
thay đổi tinh vi hơn, nguy hiểm hơn. Hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn là 
nguồn gốc áp bức giai cấp và áp bức dân tộc. Muốn xoá bỏ triệt để nạn áp 
bức dân tộc phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa 
đế quốc), là chế độ người bóc lột người. 
 379 
Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề dân 
tộc độc lập, thực chất là đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức bóc lột 
của chủ nghĩa đế quốc, của các tập đoàn tư bản lớn. Ngược lại vấn đề dân 
tộc, xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, phong trào giải 
phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công 
nhân trên thế giới, vì sự nghiệp giải phóng người lao động, xây dựng xã hội 
xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, vai trò nhân tố dân tộc trong sự 
phát triển xã hội nói chung và trong quan hệ với vấn đề giai cấp vận động 
theo hai hướng: Thứ nhất là xu hướng giảm tương đối vai trò nhân tố dân 
tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, sự giao 
lưu giữa các dân tộc. Thứ hai, là xu hướng khẳng định và tăng cường nhân 
tố dân tộc, bản sắc của các dân tộc. 
Mỗi một trong hai xu hướng này đều có mặt tích cực và mặt hạn chế 
của nó. Xu hướng tăng cường sự giao lưu, hoà nhập giữa các dân tộc có 
mặt tích cực là mở rộng sự hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hoá giữa các dân 
tộc, thúc đẩy sự hỗ trợ nhau phát triển. Nhưng cũng có mặt trái là tư tưởng 
coi thường bản sắc văn hoá dân tộc, xem thường yêu cầu độc lập, chủ 
quyền dân tộc và trong điều kiện hiện nay dễ dàng áp đặt "giá trị phương 
tây", hay "giá trị" của một quốc gia nào đó lên các dân tộc khác, hoặc lên 
toàn thế giới, thực hiện chủ nghĩa đế quốc mới v.v… Trong xu hướng thứ 
hai khẳng định tăng cường nhân tố bản sắc dân tộc, có mặt tích cực là coi 
trọng độc lập dân tộc, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển, 
thúc đẩy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc tiến bộ. Tuy nhiên xu 
hướng này có mặt trái là dễ rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, 
chủ nghĩa bài ngoại..., do vậy cần khẳng định mặt tích cực và đấu tranh 
chống các yếu tố tiêu cực trong cả hai xu hướng đó. 
Tóm lại trong giai đoạn hiện nay quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn 
đề giai cấp có nhiều biểu hiện phức tạp. Để giải quyết đúng đắn mối quan 
hệ này, các Đảng của giai cấp công nhân cần nắm vững quan điểm của chủ 
nghĩa Mác - Lênin, hiểu rõ xu hướng vận động của nhân tố dân tộc trong sự 
phát triển xã hội để vận dụng vào điều kiện cụ thể cho thích hợp, bảo vệ lợi 
ích chân chính của dân tộc và của giai cấp công nhân, của nhân dân lao 
động. 
2. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại 
Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái 
đất từ hàng triệu năm nay, không phân biệt thuộc dân tộc, chủng tộc, giai 
cấp, tôn giáo nào. 
 380 
Nhân loại, mặc dù phân chia thành các bộ phận khác nhau như giai 
cấp, tầng lớp xã hội, các cộng đồng dân tộc, tộc người, nhưng vẫn là một 
thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất đó là những nhân tố tồn tại khách 
quan quy định đến lợi ích chung của mỗi cá thể và của cả cộng đồng. Lợi 
ích nhân loại là những quá trình, những mối liên hệ khách quan, những 
nhân tố quy định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi người và của cả loài 
người. Chẳng hạn quá trình bảo vệ môi trường, quá trình dân số v.v.. 
Lợi ích nhân loại và lợi ích cá nhân thống nhất với nhau, nhưng 
không hoàn toàn đồng nhất. Những thời tiền sử các cộng đồng người với 
qui mô nhỏ, sống còn biệt lập nhau, nên chưa hình thành những mối liên hệ 
toàn nhân loại, con người chưa có ý thức về loài của mình. Chỉ đến giai 
đoạn phát triển nhất định của xã hội con người mới đặt ra cho mình câu hỏi 
con ngươì là gì, mỗi cá nhân con người quan hệ với đồng loại, với cả cộng 
đồng như thế nào? loài người có vận mệnh chung hay không? v.v. Đó 
chính là những nội dung của vấn đề nhân loại. 
Trong xã hội có giai cấp, giữa nhân loại và giai cấp có quan hệ chặt 
chẽ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ: mỗi giai cấp do địa vị xã hội khác 
nhau sẽ nhìn nhận và giải quyết vấn đề nhân loại theo cách thức khác nhau. 
Giai cấp tiên tiến, cách mạng có lợi ích phù hợp với lợi ích nhân loại, do 
vậy giải quyết vấn đề nhân loại theo xu hướng tích cực, tiến bộ. Ngược lại, 
giai cấp bảo thủ phản động có lợi ích đối lập với lợi ích của nhân loại sẽ 
kìm hãm sự phát triển nhân loại. Trong lịch sử đã tồn tại một số nhà tư 
tưởng bảo thủ, một số tập đoàn đặc quyền, đặc lợi đã phủ nhận sự thống 
nhất trên bản chất loài của cộng đồng nhân loại. Thí dụ thời cổ đại, một số 
nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô coi nô lệ là "công cụ biết nói", không 
cùng loài với các đẳng cấp khác. Trong chế độ phân biệt chủng tộc, người 
ta coi tộc người này là cao quý, còn tộc người khác là thấp hèn, không đồng 
loại v.v.. Bên cạnh quan niệm phản động về nhân loại đó, trong lịch sử đã 
có nhiều nhà tư tưởng tiên tiến thừa nhận nhân loại có vận mệnh chung, có 
bản chất chung. Chẳng hạn, nhiều nhà tư tưởng lớn thời phục hưng, và thời 
cận đại đề cao cái nhân loại, đề cao con người, coi quyền con người như 
quyền tự nhiên. Quan điểm đó có giá trị chống lại chế độ đẳng cấp và thần 
quyền. Đây là một bước tiến của ý thức về nhân loại. Như vậy là giai cấp 
thống trị, mặc dù là giai cấp bóc lột, nhưng còn là giai cấp tiên tiến vẫn có 
vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển nhân loại. 
Tuy nhiên quan niệm về nhân loại, về quan hệ giữa nhân loại và giai 
cấp của các nhà tư tưởng trước Mác còn trừu tượng và phiến diện. Họ chưa 
 381 
thấy được tính lịch sử của khái niệm nhân loại, mà chỉ thấy mặt tự nhiên, 
mặt sinh vật của tính thống nhất nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho 
rằng con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng 
của những thực thể xã hội. Các quan hệ xã hội của loài người vô cùng 
phong phú, phức tạp và không ngừng thay đổi theo sự phát triển những 
năng lực bản chất của con người. Do vậy vấn đề nhân loại, lợi ích chung 
của nhân loại, tính thống nhất của nhân loại phải được xem xét một cách cụ 
thể trong những điều kiện lịch sử nhất định. Quan hệ giữa giai cấp và nhân 
loại thể hiện ở chỗ: vấn đề giai cấp là yếu tố của vấn đề nhân loại. Vì vậy 
chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng trong xã hội có giai cấp vấn đề 
giai cấp không chỉ là vấn đề riêng của một giai cấp, một tầng lớp nào đó, 
mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng 
các dân tộc bị áp bức là nội dung cơ bản của quá trình giải phóng con 
người, đưa toàn nhân loại tiến lên. Đây vừa là vấn đề giai cấp, dân tộc, vừa 
là vấn đề nhân loại. Do vậy không thể loại trừ "cái giai cấp" ra khỏi "cái 
nhân loại". Vấn đề giai cấp là yếu tố cấu thành vấn đề nhân loại. Quan 
điểm loại trừ "cái giai cấp" ra khỏi "cái nhân loại" là không phù hợp với 
hiện thực lịch sử, không lôgic. 
Trong thời đại ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách 
mạng khoa học - công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, 
sự mở rộng các lĩnh vực giao lưu và hợp tác giữa các dân tộc, các quốc gia, 
điều đó làm nảy sinh nhiều vấn đề có tính nhân loại mới, và mối quan hệ 
giữa giai cấp với nhân loại cũng có những thay đổi sâu sắc. 
Những vấn đề có tính nhân loại liên quan đến sự tồn tại của cả loài 
người và giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự hợp tác của cả cộng 
đồng nhân loại, không một cá nhân, một tập đoàn, nột quốc gia riêng lẻ nào 
có thể giải quyết được. Đó là những vấn đề như: bảo vệ môi trường, chống 
chiến tranh hạt nhân, chống khủng bố, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, 
phát triển dân số, vấn đề giải phóng con người, giải phóng dân tộc, thực 
hiện quyền bình đẳng giữa con người với nhau v.v. đều là những vấn đề có 
tính nhân loại hiện nay. 
Có thể nói mọi người đều thừa nhận những vấn đề trên là những vấn 
đề lớn, vấn đề quan tâm chung của nhân loại. Tuy nhiên nhận thức về tầm 
quan trọng, về nguyên nhân và phương hướng giải quyết các vấn đề đó lại 
rất khác nhau. Điều này là tất nhiên, vì thời đại hiện nay vẫn tồn tại giai cấp 
và mâu thuẫn giai cấp, chính lợi ích giai cấp chi phối cách giải quyết những 
vấn đề có tính nhân loại khác nhau. Tất nhiên không phải giai cấp nào cũng 
 382 
đưa ra cách giải quyết vấn đề nhân loại thực sự khoa học, hợp lý. Theo 
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời đại hiện nay, giai cấp 
công nhân - sản phẩm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đại diện 
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính chất xã hội hoá cao - do vậy giai 
cấp công nhân có bản chất cách mạng và có tính chất quốc tế. Lợi ích của 
giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích nhân loại. Đứng trên quan điểm lợi 
ích của giai cấp công nhân mới giải quyết đúng đắn các vấn đề nhân loại 
hiện nay, chống được chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bè phái hay 
chủ nghĩa cực quyền nước lớn muốn áp đặt thế giới trong trật tự vì lợi ích 
của một quốc gia dân tộc, một tập đoàn tư bản nhất định. 
Như vậy hiện nay vấn đề giai cấp trở thành vấn đề nhân loại trực 
tiếp. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vì lợi ích của mình, gắn liền 
với cuộc đấu tranh vì dân chủ và bình đẳng tự do, gắn liền với phong trào 
giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh đó là nhân tố quan trọng nhất tạo ra 
những điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của nhân loại. 
3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại 
trong cách mạng Việt Nam 
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định giữa vấn đề giai cấp, vấn đề dân 
tộc và vấn đề nhân loại có sự thống nhất, quan hệ biện chứng với nhau. Tuy 
nhiên sự thống nhất đó được xem xét và giải quyết với những nội dung và 
mức độ khác nhau tuỳ theo yêu cầu thực tiễn đặt ra của từng thời kỳ lịch 
sử. 
Ở thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản chưa trở thành chủ nghĩa đế 
quốc, vấn đề quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại được Mác và 
Ăngghen xem xét và giải quyết xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách 
mạng vô sản lúc đó. Các ông coi cuộc cách mạng của giai cấp vô sản giải 
phóng khỏi sự thống trị của giai cấp tư sản là điều kiện cơ bản nhất để thực 
hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. 
Lênin đã vận dụng lý luận của Mác về mối quan hệ giữa vấn đề giai 
cấp, dân tộc và nhân loại trong điều kiện lịch sử mới, khi chủ nghĩa tư bản 
đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Lênin cho rằng cách mạng giải phóng 
dân tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản. Tư tưởng 
đó được thể hiện trong khẩu hiệu mà lênin nêu ra là: "vô sản tất cả các 
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". 
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn 
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát triển nhiều nội dung lý luận rất 
 383 
đặc sắc về mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới 
của thực tiễn cách mạng trong thời đại hiện nay. Những nội dung đó có thể 
khái quát ở các khía cạnh sau: 
Thứ nhất: Hồ Chí Minh đã có sự nhìn nhận sâu sắc và toàn diện về 
tình hình của thời đại và tình hình Việt Nam, đã xác định đúng vị trí của 
cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ với cách mạng thế giới. Người chỉ 
rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng 
thế giới. Có hiểu rõ tính chất của thời đại, hiểu rõ bối cảnh của Việt Nam 
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mới thấy hết ý nghĩa lớn lao 
kết luận này của Hồ Chí Minh. 
Nhờ kết luận này soi đường, cách mạng Việt Nam đã tìm ra lối đi 
đúng đắn, chấm dứt tình trạng bế tắc về đường lối đã làm cho hàng loạt 
phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX dù theo đường lối phong 
kiến hay theo đường lối tư sản đều không đi đến thành công. 
Kết luận này khẳng định cách mạng Việt Nam - một nước thuộc địa 
nửa phong kiến, cũng nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, là bộ phận 
của cách mạng vô sản thế giới. Đây là quy luật khách quan, là xu hướng tất 
yếu của thời đại. Do vậy cách mạng Việt Nam phải liên hệ chặt chẽ với 
cách mạng thế giới, phải nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt của 
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các 
nước trên thế giới mới tạo được nguồn sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt 
Nam giành thắng lợi. 
Là một bộ phận của cách mạng thế giới nên thắng lợi của cách mạng 
Việt Nam cũng đồng thời là thắng lợi của cách mạng thế giới, trực tiếp thúc 
đẩy cách mạng thế giới phát triển. 
Rõ ràng luận điểm trên của Hồ Chí Minh đã khái quát đúng thực 
tiễn, đã làm phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều lý luận của chủ nghĩa Mác 
- Lênin về quan hệ giai cấp, dân tộc và nhân loại. 
Thứ hai: Khái quát xu hướng của thời đại và tình hình thực tiễn Việt 
Nam, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam Hồ Chí 
Minh nêu quan điểm: giải phóng giai cấp kết hợp chặt chẽ với giải phóng 
dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 
Giải phóng giai cấp kết hợp chặt chẽ với giải phóng dân tộc trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh là cách mạng vô sản các nước tư bản và cách mạng 
giải phóng dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau, đều là động lực cơ bản 
cho cách mạng thế giới, có tầm quan trọng ngang nhau như hai cánh của 
 384 
con chim. Cách mạng vô sản ở các nước tư bản tạo điều kiện cho cách 
mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi, ngược lại cách mạng giải phóng 
dân tộc cũng thúc đẩy cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển và 
giành thắng lợi. 
Hồ Chí Minh đã phát triển hơn nữa quan điểm của chủ nghĩa Mác - 
Lênin về vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc. Mác khái quát thực tiễn 
của thế kỷ XIX cho rằng xoá bỏ nạn bóc lột giai cấp là điều kiện cơ bản để 
xoá bỏ áp bức dân tộc. Ở đây chưa đề cập đến sự tác động của cách mạng 
giải phóng dân tộc đối với cách mạng vô sản ở các nước tư bản. Lênin phát 
triển lý luận của chủ nghĩa Mác vào điều kiện xã hội những năm đầu thế kỷ 
XX, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, đã đánh 
giá cao vai trò của phong trào giải phóng dân tộc. Lênin cho rằng cách 
mạng vô sản ở các nước tư bản phải kết hợp với cách mạng giải phóng dân 
tộc. Ở đây vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc đã được đề cập đến. 
Phát triển hơn nữa tư tưởng của Lênin về vai trò cách mạng giải phóng dân 
tộc, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân 
tộc không những cần phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở các nước 
tư bản, mà còn phải có tính chủ động tích cực, không thụ động chờ cách 
mạng vô sản "thành công" để có tiền đề và điều kiện thực hiện cuộc cách 
mạng giải phóng dân tộc. Trái lại, trong những điều kiện nhất định, cách 
mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở 
các nước tư bản, từ đó giúp đỡ giai cấp vô sản ở các nước tư bản trong sự 
nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng con người của mình. Đây là sự kết 
hợp rất biện chứng, sáng tạo giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân 
tộc trong điều kiện cụ thể của thời đại. 
Giải phóng giai cấp kết hợp với giải phóng dân tộc trong tư tưởng 
Hồ Chí Minh còn có nghĩa là độc lập dân tộc là điều kiện cho giải phóng 
giai cấp. Muốn xoá bỏ áp bức giai cấp cả đối với các nước tư bản, cả đối 
với các nước phụ thuộc, thuộc địa phải giải phóng dân tộc. Không có độc 
lập dân tộc thì không thể giải phóng con người được. Vì vậy nhiệm vụ giải 
phóng dân tộc, đấu tranh giành độc lập dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. 
Tư tưởng đó được thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của Hồ Chí Minh: 
"Không có gì quý hơn độc lập tự do". Nhưng dân tộc độc lập thực sự lại 
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xoá bỏ 
triệt để áp bức giai cấp. Như vậy là giải phóng dân tộc phải bao hàm nội 
dung giải phóng giai cấp. Đây là sự giải quyết rất tài tình và độc đáo mối 
quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong điều kiện cụ thể của thời đại và của 
 385 
Việt Nam. Ngay từ đầu cách mạng Việt Nam đã xác định con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội, và trên thực tế cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi 
không thể thiếu sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc 
kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, 
thống nhất đất nước không thể thiếu vai trò của công cuộc xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Độc lập dân tộc của Việt Nam được đảm bảo đến 
nay không thể tách rời với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy 
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật tất yếu xuyên suốt 
quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, 
đến nay và từ nay về sau. Đây là sự sáng tạo rất đặc sắc của tư tưởng Hồ 
Chí Minh trong việc giả quyết mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân 
loại. 
Thứ ba: Trong chỉ đạo cách mạng Hồ Chí Minh luôn khẳng định: để 
đưa cách mạng đến thắng lợi triệt để trước hết phải có Đảng cộng sản - đội 
tiền phong của giai cấp công nhân - lãnh đạo. Điều đó khẳng định cách 
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải do giai cấp công nhân Việt Nam 
thông qua đội tiền phong của mình lãnh đạo. Đảng cộng sản không những 
là đội tiền phong của giai cấp công nhân, người đại diện chân chính cho lợi 
ích của giai cấp công nhân, mà còn đại diện cho lợi ích dân tộc và lợi ích 
của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đảng phải có lý luận cách mạng soi 
đường, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo nhưng sự nghiệp cách 
mạng là của "đa số dân chúng" chứ không phải của số ít người. Do vậy 
phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân. Muốn xây dựng được khối 
đoàn kết toàn dân, Đảng phải dựa vào công nhân và nông dân, xem liên 
minh công nông là cái gốc của cách mạng, trên cái gốc công nông liên 
minh bền vững, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ có như vậy 
mới có đủ sức mạnh để đánh đổ các thế lực phản cách mạng. Người Viết: 
"Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và trên cơ sở liên minh công 
nông ngày càng vững chắc, trong mỗi giai đoạn cách mạng, cần tập hợp 
mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ thành một mặt trận rộng rãi, thực hiện 
thống nhất hành động dưới nhiều hình thức giữa các lực lượng ấy để chống 
kẻ thù"(1). 
Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng và phát triển sức mạnh của 
khối đoàn kết toàn dân tộc. Người nêu khẩu hiệu "đoàn kết, đoàn kết, đại 
đoàn kết; thành công, thành công đại thành công". Ở đây vấn đề giai cấp, 
(1)
 Hồ Chí Minh Tuyển tập, tập III, Nxb ST HN 1980. 
 386 
vấn đề dân tộc và nhân loại hoà quyện vào nhau rất chặt chẽ và sáng rõ. Hồ 
Chí Minh không hề hạ thấp vấn đề giải phóng giai cấp, vấn đề giải phóng 
con người, tuyệt đối hoá vấn đề dân tộc, không hề xoá nhoà vị trí vai trò 
của các vấn đề, mà trong tư tưởng của Người "cái giai cấp", "cái dân tộc" 
và "cái nhân loại" đều nổi trội trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự nghiệp 
cách mạng của giai cấp vô sản không thể thành công nếu không có sự đoàn 
kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ của các dân tộc. Sự nghiệp giải 
phóng dân tộc cũng không thể thành công nếu không đặt trong mối liên hệ 
chặt chẽ với cách mạng thế giới. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không 
thể đi đến thắng lợi triệt để nếu nó không gắn với mục tiêu đấu tranh giai 
cấp của giai cấp vô sản, không gắn với chủ nghĩa xã hội. 
Sự kết hợp biện chứng này được Hồ Chí Minh thực hiện thành công 
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là một sự phát triển sáng tạo, 
một đóng góp Xuất sắc vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về 
mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại. 
4. Vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng 
Việt Nam hiện nay 
Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo 
đến nay đã trải qua một chặng đường dài hơn 75 năm, đã thu được nhiều 
thắng lợi vẻ vang. Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng 
lợi vẻ vang đó là Đảng đứng đầu là Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn 
mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong từng điều kiện lịch sử 
cụ thể. Nét đặc biệt nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là gắn liền độc 
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ này xuyên suốt tiến trình 
cách mạng Việt Nam, chi phối các mặt khác của cuộc cách mạng. 
Hiện nay do tình hình thế giới có nhiều thay đổi, tạo ra những thời cơ 
và thách thức mới. Sự nghiệp đổi mới của nước ta tiến triển tốt đẹp, đạt 
được những thành tựu to lớn rất quan trọng, nên quan hệ giai cấp, dân tộc, 
nhân loại trong cách mạng Việt Nam có những biểu hiện mới. 
Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng 
Việt Nam tiến lên, vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam 
hiện nay cần đảm bảo những nội dung sau: 
Một là giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với khối đoàn kết toàn dân 
tộc. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn giai cấp và còn đấu tranh giai cấp. 
Đó là điều tất yếu. Vấn đề là đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta là như 
thế nào; nó có liên quan như thế nào với đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại 
 387 
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối nhất quán của Đảng ta, cũng nhất quán 
với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính đoàn kết tạo nên sức mạnh tổng hợp cho 
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Tư tưởng này cũng được khẳng định 
trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng: "Động lực chủ yếu để phát triển đất 
nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với 
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập 
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và tiềm lực của các thành phần kinh 
tế, của toàn xã hội"(1). Đây là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan 
điểm của giai cấp công nhân về vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được 
vận dụng cụ thể ở Việt Nam. Quan điểm này không đối lập đấu tranh giai 
cấp với đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân không có nghĩa loại trừ 
đấu tranh giai cấp, mà cần thực hiện đấu tranh giai cấp đúng quy luật, phục 
vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân 
dân. Chính mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đáp ứng lợi ích 
chung của mọi tầng lớp, mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu 
tranh giai cấp ở nước ta sẽ không mâu thuẫn với đại đoàn kết toàn dân tộc, 
không những thế còn củng cố vững chắc hơn khối đoàn kết toàn dân tộc. 
Nhưng muốn xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc trước hết phải củng cố 
vững chắc khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Khối 
liên minh này được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được củng cố 
vững chắc sẽ là nền tảng cho đoàn kết toàn dân tộc. 
Hai là phải giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền 
kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề rất phức tạp liên quan 
đến cả vấn đề giai cấp, dân tộc và nhân loại. Bởi vì cơ chế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa vừa tạo điều kiện mở rộng và tăng cường khối đại 
đoàn kết toàn dân tộc, nhưng kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó. Đó 
là sự phân hoá giàu nghèo, dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. 
Sự phân hoá xã hội nếu không được khống chế, để phát triển tự phát, sẽ 
làm mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân tăng lên và ảnh hưởng không tốt đến 
việc củng cố khối đoàn kết toàn dân. Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện 
nay đang diễn ra khá phức tạp, tuy nhiên chưa gây ra mâu thuẫn giai cấp, 
xung đột xã hội nghiêm trọng. Mặc dù vậy cần phải thấy rõ kinh tế thị 
trường đang và sẽ dẫn đến sự khác biệt ngày càng lớn giưã các giai cấp và 
tầng lớp xã hội. Tầng lớp tư sản rất có thể phát triển thành giai cấp tư sản. 
Khi đó sẽ xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp về quan hệ giai cấp, dân tộc 
và nhân loại. Vì vậy việc kết hợp phát triển kinh tế thị trườn
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giaotrinhtriethoc_p2_0242.pdf giaotrinhtriethoc_p2_0242.pdf