Giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý xã hội

+ Mục đích yêu cầu:

Trang bị những kiến thức cơ bản về giới trong lãnh đạo và quản lý xã hội, mục tiêu, giải pháp giải quyết vấn đề giới trong lãnh đạo và quản lý xã hội. Từ đó, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện, cũng như vận dụng trong hoạt động thực tiễn sau này.

+ Nội dung: 2 phần

I. Lãnh đạo, quản lý và yêu cầu đối với người lãnh đạo, quản lý xã hội.

II. Giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý.

+ Thời gian: 02 tiết

+ Phương pháp: Phân tích, diễn giảng

+ Tài liệu:

Tập bài giảng dân số - môi trường, phát triển và nâng cao nhận thức giới. Khoa KHXH&NV, Học viện Chính trị quân sự. Bắc Ninh năm 2007.

 

doc14 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 891 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề 7 GIỚI TRONG LĨNH VỰC LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI PHẦN MỞ ĐẦU + Mục đích yêu cầu: Trang bị những kiến thức cơ bản về giới trong lãnh đạo và quản lý xã hội, mục tiêu, giải pháp giải quyết vấn đề giới trong lãnh đạo và quản lý xã hội. Từ đó, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện, cũng như vận dụng trong hoạt động thực tiễn sau này. + Nội dung: 2 phần I. Lãnh đạo, quản lý và yêu cầu đối với người lãnh đạo, quản lý xã hội. II. Giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý. + Thời gian: 02 tiết + Phương pháp: Phân tích, diễn giảng + Tài liệu: Tập bài giảng dân số - môi trường, phát triển và nâng cao nhận thức giới. Khoa KHXH&NV, Học viện Chính trị quân sự. Bắc Ninh năm 2007. PHẦN NỘI DUNG I. Lãnh đạo, quản lý và yêu cầu đối với người lãnh đạo, quản lý xã hội. 1. Lãnh đạo, quản lý xã hội. Đầu tiên chúng ta phải phân biệt giữa hai khái niệm, lãnh đạo và quản lý. - Lãnh đạo: Là “dẫn lối, chỉ đường”, là sự định hướng chung cho mọi cộng đồng cùng sống với nhau, cùng có một sự liên kết theo một mục tiêu nhất định; là việc tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương đã xác định nhằm đạt được mục tiêu đề ra. VD: Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đề ra đường lối, định hướng phát triển đất nước theo mục tiêu: Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Lãnh đạo đều có những lĩnh vực phạm vi nhất định, cụ thể như: Lãnh đạo tư tưởng, lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo các cấp... + Trên bình diện rộng, lãnh đạo thường được hiểu trong sự gắn liền với chính trị, với thượng tầng kiến trúc, chi phối các phương hướng xây dựng và hoạt động của các lĩnh vực, các tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức Nhà nước. + Ở phạm vi hẹp (trong cơ quan, một tổ chức xã hội), lãnh đạo thường được hiểu là việc định hướng và dẫn dắt công việc chung của cơ quan, tổ chức đơn vị đạt được mục tiêu đã xác định. VD: Lãnh đạo các Phòng, Ban, Khoa... - Quản lý: Được hiểu là sự tổ chức điều hành để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu. VD: Nhà nước quản lý có nghĩa là Nhà nước hoạch định chính sách, tổ chức và điều hành bộ máy để đạt được mục tiêu đề ra. + Quản lý bao gồm có 4 yếu tố: . Khách thể quản lý (quản lý ai, quản lý cái gì?) . Chủ thể quản lý (ai quản lý) . Phương pháp quản lý (quản lý theo cơ chế nào?) . Công cụ quản lý (quản lý bằng phương tiện gì?) Trong đó, khách thể quản lý có vai trò quyết định đối với chủ thể quản lý, cơ chế quản lý và công cụ quản lý, mặc dù chủ thể quản lý luôn là một bộ phận định hướng, bộ phận đầu não của mọi cơ cấu, mọi tổ chức. + Để duy trì các hoạt động của một tổ chức, làm cho các cá nhân trong tổ chức đó hoạt động thống nhất với mục tiêu chung, đòi hỏi người làm công tác quản lý phải đưa ra được các biện pháp điều hành, phối hợp các hoạt động, tác động cụ thể thích ứng với từng đối tượng quản lý và phù hợp với từng thời điểm, phát huy được sức lực và trí tuệ của từng thành viên và tập thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đặt ra. - Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý + Hai khái niệm Lãnh đạo và quản lý có nội dung riêng, lãnh đạo là vạch đường lối, chủ trương, xác định đường đi, nước bước để bảo vệ và phát triển đất nước. Quản lý là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành hệ thống pháp luật và chính sách để điều hành đất nước. + Tuy nhiên, hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, hỗ trợ nhau. . Thể hiện: Quản lý phải luôn bám sát phương hướng, mục tiêu của lãnh đạo, nếu không sẽ mất phương hướng dẫn tới sự rối loạn tổ chức, rối loạn xã hội phá vỡ sự ổn định của đời sống xã hội. Thiếu sự quản lý một cách chặt chẽ khoa học, kém hiệu lực, hiệu quả thì những mục tiêu, phương hướng do lãnh đạo vạch ra sẽ không trở thành hiện thực. . Hiến pháp nước ta xác định cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. . Với những cơ quan đơn vị nhỏ và vừa người đứng đầu cơ quan, đơn vị vừa là người quản lý, vừa là người lãnh đạo luôn. Có nghĩa là vừa đề ra phương hướng, kế hoạch, vừa triển khai, theo dõi, giám sát thực hiện... 2. Yêu cầu của người lãnh đạo, quản lý xã hội. Lãnh đạo và quản lý là chức năng cơ bản, không thể thiếu đối với bất cứ cộng đồng, tổ chức xã hội nào. Lãnh đạo, quản lý tốt thì hiệu quả hoạt động của cộng đồng, tổ chức sẽ được nhân lên và ngược lại nếu lãnh đạo quản lý không tốt thì sức mạnh tập thể không những không có mà sức mạnh của cá nhân cũng bị triệt tiêu. Người lãnh đạo, quản lý có vai trò đi đầu trong việc hướng tới mục tiêu; là người cải cách, đưa tư tưởng, quan điểm mới để cải tiến công việc; là người khởi xướng, cải tiến, điều hành công việc; đồng thời, là người tìm kiếm nguồn lực, chỉ huy điều phối hoạt động; cung cấp, định hướng thông tin; cuối cùng người lãnh đạo là người kiến tạo, thúc đẩy sự đoàn kết và hợp tác trong công việc. - Gương mẫu đi đầu trong công việc để hướng tới mục tiêu. + Người lãnh đạo, quản lý phải có hành động gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc làm tốt vai trò, trách nhiệm của mình, góp phần tích cực nhất vào thực hiện mục tiêu chung mới thu phục, lôi cuốn được mọi thành viên làm theo, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. + Thể hiện phương pháp và tác phong của người đi đầu trong việc hướng tới mục tiêu, sống và làm việc vì tập thể, biết vượt lên trên những tính toán cá nhân, ngại khó, ngại khổ trong công việc, khẳng định phẩm chất năng lực và uy tín lãnh đạo, quản lý trước cộng đồng. - Lập kế hoạch, điều hành các hoạt động. . Thể hiện ở việc xây dựng, thực hiện kế hoạch kế hoạch khoa học, bao quát mọi lực lượng, phân công đúng người đúng việc, có phương hướng tổ chức triển khai kế hoạch hợp lý, phát huy sức mạnh của tổ chức nhằm đạt mục tiêu đề ra. . Muốn vậy, người lãnh đạo phải có năng lực xây dựng, thiết lập kế hoạch, triển khai khoa học, bao quát được tổng thể, phân công đúng người, đúng việc, khắc phục kịp thời những nảy sinh, phát huy được sức mạnh từng cá nhân và tổ chức trong thực hiện mục tiêu đề ra. . Điều đó cũng có nghĩa, để trở thành người lãnh đạo và lãnh đạo giỏi thì nhất thiết phải có sự hội tụ của nhiều nhân tố như: Giao tiếp, tập hợp, khả năng thiết lập kế hoạch, quyết đoán... Vì thế, mới có một thực tế nhiều người rất giỏi chuyên môn nhưng không làm được lãnh đạo. - Tìm kiếm nguồn lực, chỉ huy điều phối hoạt động. . Thể hiện biết khai thác tìm kiếm nguồn lực, phát huy sức mạnh của từng cá nhân, tổ chức, điều phối hoạt động nhằm đạt mục tiêu đề ra. . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. . Người lãnh đạo điều quan trọng nhất là phải biết tìm kiếm và phát huy cao độ nguồn nhân lực, trí tuệ tập thể vào giải quyết công việc. - Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong quá trình lãnh đạo, quản lý. . Đây là yêu cầu giữ vai trò quyết định đến thành công hay thất bại của người lãnh đạo, quản lý. Bởi có tạo được sự đồng thuận trong tổ chức, đảm bảo lợi ích cá nhân và cộng đồng mới phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo mọi người nhằm đạt mục tiêu trước mắt và lâu dài. Ngược lại, nếu người lãnh đạo làm cho lực lượng bị phân tán, nội bộ lục đục, mâu thuẫn, bè phái, mưu toan lợi ích cá nhân thì tất yếu sẽ thất bại. II. Giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý 1. Cơ sở của việc giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý a. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. - Thực hiện nam nữ bình đẳng là tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng Nhà nước ta và thể hiện trong một số điều luật, bộ luật như: Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ Luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Lao động. Cụ thể điều 62 Hiến pháp 1992 có khẳng định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và gia đình”. - Mục tiêu đến năm 2010 mà Chính phủ Việt Nam cam kết trong Chiến lược Quốc gia về phát triển xã hội là tạo điều kiện bình đẳng cho phụ nữ về mọi mặt trong phát triển, kể cả trong việc tham gia vào quản lý ở các cấp. . Đại hội X của Đảng đã khẳng định rõ: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp”. b. Vai trò, năng lực của phụ nữ - Phụ nữ trong cơ cấu dân cư: chiếm 50% lực lượng lao động, họ là phần nửa của nhân loại, có mặt hầu hết trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để vừa góp sức lực, tài năng cho sự phát triển; đồng thời vừa để nói lên tiếng nói, phản ánh nhu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của giới nữ. Vì thế, việc đưa phụ nữ tham gia vào hoạt động lãnh đạo, quản lý là thực hiện công bằng, bình đẳng giới trong xã hội. - Trong lịch sử và hiện tại, ở Việt Nam và trên thế giới, sự đóng góp của phụ nữ vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý đã đạt được nhiều thành tựu đáng trân trọng. + Lịch sử Việt Nam còn ghi lại những tấm gương sáng ngời về tài ba, nghị lực phi thường của nhiều thế hệ phụ nữ trong nhiều lĩnh vực. Đó là bà Trưng, bà Triệu. Những nữ tướng đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, đã phất cờ nổi dậy đánh giặc ngoại xâm; Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) thay vua cáng đáng những công việc khó khăn của triều đình; Nguyên Phi ỷ Lan (thế kỷ XI) thông minh sắc sảo, giúp vua thu xếp ổn thoả việc nước; Đô đốc Bùi Thị Xuân, nữ tướng anh hùng thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII). + Chúng ta càng tự hào hơn về những tấm gương sáng ngời, những tên tuổi nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới như: Nguyễn Thị Minh Khai, người phụ nữ trung kiên, thông minh trong lãnh đạo phong trào quần chúng, tiêu biểu cho tinh thần kiên cường, bất khuất của phụ nữ Việt Nam; Bà Nguyễn Thị Thập Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam khoá II và khoá III, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người đã từng lặn lội với phong trào cách mạng quê hương trong thời kỳ tiền khởi nghĩa; Bà Nguyễn Thị Định - Phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam, mưu trí và dũng cảm trong lãnh đạo phong trào Đồng khởi, đầy lòng nhân ái với mọi người; Bà Nguyễn thị Bình - Phó Chủ tịch nước, nhà ngoại giao thông minh, kiên nhẫn, nhà hoạt động chính trị tài giỏi trong các công việc Nhà nước. - Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, phụ nữ Việt Nam càng có nhiều đóng góp to lớn vào công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp vĩ mô đến cơ sở, từ các lĩnh vực Đảng, chính quyền, các đoàn thể đến các lĩnh vực khác như khoa học, sản xuất kinh doanh. . Hầu hết, các lĩnh vực và các cấp đều có phụ nữ tham gia rất tích cực, đạt được nhiều thành tựu. Vì vậy, việc đưa phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực lãnh đạo, quản lý là để phát huy sức lực, tài năng của họ trong đời sống xã hội một cách có hiệu quả ngày càng cao hơn. - Mặt khác, với phụ nữ có nhiều ưu thế cần được phát huy, đó là những phẩm chất, tính cách rất thuận lợi, phù hợp với công tác lãnh đạo, quản lý như khả năng vận động, thuyết phục đối với giới nữ nói riêng và với mọi người nói chung; khả năng thích nghi nhanh chóng với thời cuộc, môi trường sống; có tinh thần trách nhiệm tận tuỵ với công việc; có lòng nhân hậu, công tâm; dịu dàng, tế nhị; có tác phong gần gũi, biết lắng nghe; có lòng trung thực, thẳng thắn, nghiêm túc và thận trọng. Ngoài tri thức, sự hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng quản lý mà ai làm lãnh đạo, quản lý đều cần phải có thì những phẩm chất nêu trên là thế mạnh rất thuận lợi (so với nam giới) để phụ nữ đứng vững và khẳng định khả năng, năng lực của mình trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý. c. Thực tiễn tham gia lãnh đạo và quản lý của phụ nữ - Ở phạm vi thế giới: Phụ nữ nắm giữ các chức vụ chính quyền các cấp và lao động trí óc và ở các lĩnh vực khác nhau tăng lên rõ rệt. VD: Các thủ tướng, ngoại trưởng là nữ các nước ngoài có vai trò, vị trí và tầm ảnh hưởng rất lớn ( ngoại trưởng Mỹ rice) - Ở Việt Nam: Sự tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý cũng tăng lên đáng kể. . Biểu hiện, về số lượng và chất lượng trong rất cả các lĩnh vực từ tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, các cấp chính quyền, khối đoàn thể chính trị, xã hội và trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. . Trong mấy năm gần đây, tỉ lệ phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý các xí nghiệp, Tổng công ty, công ty sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng lên. . Ngoài ra, một số lĩnh vực quan trọng khác, phụ nữ đang tham gia tích cực và có đóng góp đặc biệt trong công tác lãnh đạo, quản lý như ngành ngoại giao. - Thực tiễn tham gia lãnh đạo và quản lý của phụ nữ ở nước ta hiện nay cũng cho thấy, tỉ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, các lĩnh vực còn thấp, hơn nữa chủ yếu giữ vai trò cấp phó giúp việc cho cấp trưởng là nam giới, do nhiều nguyên nhân. . Do cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng vai trò khả năng của cán bộ nữ, thiếu biện pháp chính sách cụ thể. . Việc chỉ đạo công tác cán bộ nữ thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên. . Phụ nữ cũng còn những khó khăn nhất định như về giới, thực hiện nhiều chức năng, không có thời gian học tập, nâng cao trình độ . Ngoài ra, do quan niệm công việc lãnh đạo, quản lý phải là thế mạnh, sở trường của phụ nữ nên nhiều phụ nữ tự ti, thiếu chủ động phấn đấu vươn lên Vì vậy, để tăng tỉ lệ tham gia của phụ nữ vào công tác lãnh đạo, quản lý cần có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về đào tạo, sử dụng, chia sẻ gánh nặng gia đình, giảm bớt định kiến giới. 2. Mục tiêu, giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý. a. Mục tiêu cơ bản để thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý Trong kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005 và 2010, Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu cơ bản và chỉ tiêu cụ thể nhằm thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý như sau: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng số phụ nữ được giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành, với các chỉ tiêu cụ thể: - Phấn đấu đạt tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng thuộc nhiệm kỳ Đ ại hội Đ ảng X từ 15% trở lên. - Phấn đấu đạt tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI là 30% và khoá XII là 33% trở lên. - Phấn đấu đạt tỉ lệ tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2004 - 2009 là 28% và nhiệm kỳ tiếp theo là 30%; cấp huyện, quận nhiệm kỳ 2004 - 2009 là 23% và nhiệm kỳ tiếp theo là 25%; cấp xã, phường nhiệm kỳ 2004 - 2009 là 18% và nhiệm kỳ tiếp theo là 20%. - Phấn đấu đạt tỉ lệ 50% cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và địa phương có nữ tham gia ban lãnh đạo vào năm 2010. - Tất cả các tổ chức giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và doanh nghiệp với 30% lực lượng lao động nữ trở lên, phấn đấu có nữ tham gia ban lãnh đạo từ năm 2005 trở đi. Đó là các mục tiêu cơ bản và những chỉ tiêu cụ thể nhằm thực hiện bình đẳng giới ở nước ta, từng bước đưa phụ nữ tham gia sâu rộng vào các lĩnh vực xã hội, phát huy vai trò, tiềm năng phụ nữ trong đời sống xã hội. b. Giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý - Quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo và quản lý. Bảo đảm tính chủ động về nguồn cán bộ cả về số lượng và chất lượng, thực hiện mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, cần phải thực hiện tất cả các bước sau đây. Một là, nhận thức đúng về quan điểm: Sự tiến bộ của phụ nữ, đem lại lợi ích cho gia đình và xã hội. Có như vậy, mới có sự đầu tư đúng mức cho phát triển toàn diện người phụ nữ, trước hết là việc đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo từ trong mỗi gia đình và toàn xã hội. Phải tuyên truyền cho mọi người và bản thân chị em thấy rõ vấn đề: phụ nữ có kiến thức, có văn hoá sẽ tự bảo đảm cho mình có cơ hội hoà nhập và tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách tự tin và bình đẳng hơn. Do vậy, Đ ảng, Nhà nước và các Ban, ngành, đoàn thể xã hội cần quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục, đào tạo nói chung và cho phụ nữ nói riêng, nhất là ở nơi vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc ít người, nhằm trang bị cho phụ nữ có mặt bằng tri thức như nam giới, bảo đảm cho họ có cơ hội tham gia vào hoạt động lãnh đạo, quản lý. Hai là, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ nữ trẻ, cán bộ nữ người dân tộc thiểu số nhằm bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng và có hiệu quả giữa các thế hệ. Đòi hỏi phải chú trọng phát hiện tài năng trẻ là nữ trong các trường học, trong đội ngũ tri thức trẻ, giới thiệu cho cấp uỷ Đ ảng bố trí, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện tham gia vào các vị trí được bố trí, xắp xếp của tổ chức đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý. Ba là, công tác tạo nguồn phải được tổ chức chặt chẽ, có hệ thống và có nhạy cảm giới. Đ ây là quá trình xuyên suốt từ khâu phát hiện, lựa chọn tài năng cho đến các khoá đào tạo có chất lượng cao, muốn vậy phải có quan điểm đúng về giới. Cụ thể là: Khuyến khích động viên nữ đoàn viên thanh niên trẻ ở cơ sở, nhất là khu vực nông thôn tham gia các hoạt động xã hội, tham gia các đoàn thể, thông qua hoạt động mà phát hiện khả năng quản lý, lãnh đạo để giới thiệu, đề xuất với cấp uỷ Đ ảng, chính quyền có hướng bố trí bồi dưỡng, đào tạo nguồn cán bộ nữ. Khuyến khích các nữ sinh viên trẻ mạnh dạn tham gia vào lĩnh vực quản lý, lãnh đạo từ tầm vi mô đến cao hơn, để họ có điều kiện làm quen kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và phong cách lãnh đạo, quản lý, khắc phục tính tự ti, trang bị năng lực quản lý, lãnh đạo cùng với bồi dưỡng kiến thức đào tạo chuyên ngành để có đội ngũ cán bộ nữ toàn diện. Quan tâm đến công tác phát triển đảng cho các nữ đoàn viên trẻ ưu tú ở các trường học cũng như ở các địa phương. Vì đây là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc của người cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo và quản lý sau nàyMặt khác, thông qua công tác phát triển đảng viên trong lực lượng nữ cũng là một giải pháp tích cực nhằm quy hoạch, sử dụng, bồi dưỡng nguồn cán bộ của Đ ảng và Nhà nước ta hiện nay. - Tạo điều kiện để cán bộ nữ được tham gia tích cực các khoá đào tạo về lý luận chính trị, về quản lý Nhà nước và kiến thức chuyên ngành. Muốn tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các khoá đào tạo, tạo điều kiện để họ tham gia tích cực vào quá trình đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực quản lý và kiến thức chuyên ngành cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau: Một là, Đ ảng và Nhà nước và các cơ sở đào tạo phải có chính sách, chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ trong biên chế, tổ chức ở các cấp, các Ban, ngành đoàn thể Trung ương và địa phương. Hai là, Ban tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ và các cơ sở đào tạo cán bộ nữ kiến nghị với các ngành, các cấp để có sự hỗ trợ về vật chất đối với cán bộ nữ đi học. Tạo điều kiện thuận lợi cho chị em khắc phục khó khăn, tập chung học tập học tập đạt kết quả cao, nhất là những chị em được cử đi học ở các cơ sở đào tạo cấp Trung ương. Ba là, duy trì mở các lớp đào tạo tại chức ở các địa phương để học viên nữ có điều kiện thực hiện tốt cả hai chức năng gia đình và xã hội, đáp ứng nhu cầu của đội ngũ cán bộ nữ hiện nay, nhất là đối với gánh nặng gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con cái của chị em. - Bản thân phụ nữ phải không ngừng phấn đấu vươn lên. Đây là một trong những giải pháp có tính cơ bản, bởi vì tạo quyền cho phụ nữ phải là một quá trình gồm hai yếu tố: khách quan và chủ quan. + Nếu Đảng, Nhà nước, xã hội tạo điều kiện mà bản thân chị em không tự ý thức để phấn đấu vươn lên thì sự nghiệp bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ sẽ không có hiệu quả. + Do vậy, bản thân nữ giới nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng phải ý thức được trách nhiệm và quyền bình đẳng của mình, tự phấn đấu vươn lên tham gia vàp công tác lãnh đạo, quản lý. + Phải biết sắp sếp công việc gia đình một cách khoa học, sử dung thời gian hợp lý và có hiệu quả, giải quyết tốt mọi công việc gia đình và công việc xã hội; biết động viên tranh thủ sự tham gia của nam giới cùng chia sẻ trách nhiệm trong công việc gia đình cũng như công việc xã hội, để tranh thủ và tích cực tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kỹ năng lãnh đạo và quản lý cũng như chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành. S Sự nỗ lực vươn lên này phải là liên tục thường xuyên và không ngừng ở mỗi cán bộ nữ mới đáp ứng được yêu cầu của người là công tác lãnh đạo và quản lý. PHẦN KẾT LUẬN Trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý xã hội phụ nữ có vai trò rất quan trọng, tuy nhiên tiềm năng, vai trò ấy chưa được phát huy cả lịch sử và hiện tại. Điều đó đòi hỏi đối với các cấp lãnh đạo và quản lý xã hội phải giải quyết vấn đề giới nhằm phát huy hiệu quả của hoạt động này trong đời sống, có chương trình kế hoạch mang tính tổng thể tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo và quản lý xã hội, đồng thời cũng yêu cầu phụ nữ phải phấn đấu vươn lên để đáp ứng với vị trí, vai trò xã hội ấy. CÂU HỎI ÔN TẬP 1.Lãnh đạo, quản lý xã hội là gì? Lãm rõ yêu cầu của người lãnh đạo, quản lý xã hội. Rút ra ý nghĩa bản thân? 2.Phân tích cơ sở mục tiêu và giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề giới trong lãnh đạo quản lý?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docb_cd7_9613.doc