quan đến suy nghĩ của các giá 
trị về những lợi ích (Elster, 1998) với thu nhập tâm linh trở thành một ví 
dụ của lý luận này, đối với tâm lý, lý tưởng và các hiện tượng văn hoá 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 39 
không chỉ đơn giản là những gì mà các nhà kinh tế cho là thu nhập, lợi 
nhuận, vốn, và những thứ tương tự vậy. Theo lẽ này, thu nhập tâm linh 
xuất hiện như là một nghịch lý phản ánh những sai lầm trên, hoặc ít nhất 
là ẩn dụ và so sánh dễ dàng, những sửa đổi này này áp dụng với thiên về 
kinh tế giả (pseudo-economic) tương tự như trên, bao gồm lợi nhuận 
chính trị, thu nhập, vốn đầu tư, trao đổi, hoặc thị trường, v.v Ngoài ra, 
theo báo cáo nghiên cứu và báo cáo tâm lý học khác, các biểu thức như 
thu nhập của tâm linh là "công bằng, bình đẳng, tìm kiếm vị thế và xuất 
phát từ lợi ích cá nhân [thỏa dụng cá nhân] rất quan trọng trong hành vi" 
(Rabin 1998:16) 
Một mặt, giải pháp cho các vấn đề về động cơ trong hành vi xã hội 
để tối đa lợi nhuận, cứng nhắc, duy lý “thin” bao gồm cả chính trị đã nghi 
ngờ ít hay nhiều cho câu trả lời phức tạp về một sự thay thế duy lý 
“thick” (ảnh hưởng về chính sách công cộng, quyền lực, hoặc độ thỏa 
dụng đơn giản)" (Wintrobe 1997:429. Mặt khác, việc chọn lựa “thick” 
thường nhảy vào các vấn đề rõ ràng của riêng nó, đặc biệt là những cạm 
bẫy của phép lặp thừa, như được khuyên bởi một số người ủng hộ của 
phương pháp kinh tế cho xã hội, bao gồm cả chính trị (Buchanan và 
Tullock 1962; Downs 1957; cf, cũng Miller. 1997). Các nhà phê bình 
phản đối đưa tất cả mọi thứ trong một hàm bao gồm toàn bộ tiện bộ tiện 
ích đơn lẻ (Etzioni 1999) làm cho độ thỏa dụng "chỉ là hệ thống toán học 
gian trá của bất kỳ nội dung riêng biệt nào" (Margolis 1982:16). 
Sự chọn lựa duy lý bằng cách thiết kế một lý thuyết vô nghĩa bởi 
bất kỳ thực thể nào (Popper 1967), trong đó các quan niệm về hành vi 
duy lý (= thống nhất) đã "không có nội dung thật" (Sugden 1991:751). 
Kết quả là một phép lặp thừa sai lệch mà "nói rất ít về hành vi của con 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 40 
người [lưu] mà nó luôn luôn hợp lý ở khắp mọi nơi" (Friedman 1996:23). 
Điều này áp dụng đối với những quan niệm lựa chọn duy lý “thin” trong 
kinh tế học tranh luận rằng khi “áp dụng cho các kết quả cuối cùng của 
hành động, các điều khoản hợp lý và không hợp lý thì không phù hợp và 
vô nghĩa”(Mises 1966:19). Vì vậy, hiện nó áp dụng cho các lý thuyết 
chọn lựa duy lý xã hội học thick (Hechter và Kanazawa 1997) duy trì 
hành vi phi duy lý hoặc "chỉ vì các quan sát viên đã không phát hiện ra 
các quan điểm của các đối tác từ những hành động gì là duy lý" 
(Coleman 1990 : 19). Để tối đa hóa độ thỏa dụng, điều này bao gồm tất 
cả cái gì được xem là chuẩn mực của hành vi duy lý, ngoài ra hầu như 
các Giáo hội Anh ngăn chặn và xử phạt bất kỳ "sự sai lệch thành sự bất 
kính" (Keynes 1972:276 - 7), một tiền đề vượt ra ngoài bất kỳ sự ngờ vực 
nào. Do vậy, ít nhất là trong quan niệm kinh tế-công cụ phổ biến của 
hành vi duy lý và tất cả các mục đích hành động được xem là bao gồm 
toàn bộ các tính toán chính xác và tối ưu hóa độ thỏa dụng (Stigler và 
Becker 1977). Với quan niệm này đã chuyển thành "tái cấu trúc toán học: 
chọn một hành vi và kể một câu chuyện về những gì nó có thể là tối đa 
hóa" (Ackerman 1997:662). 
Do đó, trong khi cố gắng để làm cho nó vượt ra khỏi những phê 
bình, tuy nhiên các cuộc cách mạng, các biến và mở rộng khác nhau quy 
mô lựa chọn duy lý trong lý thuyết cũng có thể được sử dụng như là các 
yếu tố sự phê phán. Những nỗ lực đó theo một mức độ và thay đổi hành 
động vượt quá việc nhìn nhận một quan niệm lựa chọn duy lý hẹp và 
mỏng về xã hội thành một thứ lớn hơn và dày hơn bao hàm sự thừa nhận 
những bất cập của các quan niệm. Về phương pháp luận, vì những nỗ lực 
như vậy liên quan đến phát triển lý thuyết ad-hoc hay post-hoc (Conlisk 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 41 
1996), chúng có nguy cơ ad-hockery hoặc phép lặp thừa, cũng như những 
giả thuyết ad-hoc khác nhau được tiến triển khi các tiền đề ban đầu về sự 
tối ưu hóa thất bại (Baxter 1993). Không ngạc nhiên khi nhiều tác giả đã 
đặt câu hỏi nếu những người khác đã tham gia bào chữa rằng - vô ích 
ngay cả việc phê bình lý thuyết lựa chọn duy lý, chuyển đổi nó thành một 
Popper gì đó với một liều lượng của "niềm tự hào và niềm vui" theo thuật 
ngữ 'nguyên tắc gần như trống rỗng' một hoặc phép lặp thừa sai 
lệch(Friedman 1996). 
Điều này đúng trên tất cả các tiên đề của tối ưu hóa toàn bộ độ thỏa 
dụng, trong đó hàm thỏa dụng bao gồm hầu như tất cả các động cơ và 
mục đích của con người, cho một tiên đề hiển nhiên hay một phép lặp 
thừa, giống như các mệnh đề toán học (ví dụ, 4 x 6 = 6 x 4) , không thể 
mất hiệu lực thực nghiệm chỉ bằng định nghĩa. Vì vậy, một số nhà kinh tế 
và thuyết lựa chọn duy lý xem xét tính chất lặp thừa này không có khả 
năng kiểm chứng là một lợi thế lớn của lý thuyết, tranh luận rằng "không 
cần kiểm nghiệm trực tiếp của các định đề cơ bản trong [...] vật lý hoặc 
trong kinh tế học - pháp luật tối đa hóa độ thỏa dụng và lợi nhuận 
"(Machlup 1963:167). 
Nói chung, như gợi ý ở trên, một số bài tập đầu (ví dụ như Mises, 
Hayek) trong một quan niệm lựa chọn duy lý mỏng hoặc bất khả tri trong 
kinh tế dựa trên giả định rằng hành vi xã hội là duy lý bất biến, do đó 
tương đương với con người hành động duy lý. Các giả định tương tự 
cũng được tìm thấy trong các phương pháp tiếp cận kinh tế toàn diện với 
hành vi con người vì nó xử lý các hành vi phi duy lý và biến chuyển, bao 
gồm cả sở thích, cảm xúc và thậm chí là nghiện ngập nhưng tập hợp con 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 42 
hoặc đột biến trong những sự duy lý, ví dụ như các phép tính chi phí-lợi 
ích (Becker 1991). 
Thực tế, một trường hợp khác là trong tình trạng tiếp cận kinh tế 
học của hành vi vị tha nhưng cũng là tạo thành một dạng nghịch đảo của 
sự vị kỷ duy lý, và do đó những người theo chủ nghĩa vị tha thuần túy 
được phân loại là người thích tự do (Elster năm 1989; Rose-Ackerman 
1996) trong việc biến chuyển các biến của “kẻ ngu si duy lý”(Sen 1977). 
Trong trường hợp khác, cách tiếp cận kinh tế đối xử thậm chí với việc 
nghiện ngập suốt đời và có hại cũng là sự lựa chọn duy lý phản ánh khả 
năng tối ưu hóa theo trào lưu của việc nghiện, cũng như các nhà phê bình 
(Ackerman 1997:662) phản đối, thay đổi thị hiếu và các quá trình phi duy 
lý khác và hành vi. Phương trình giả định về con người và hành động duy 
lý hay mang tính công cụ này cũng hàm ý trong mô tả “thin” về lý thuyết 
lựa chọn duy lý xã hội học của đời sống xã hội cũng như tối ưu hóa toàn 
bộ độ thỏa dụng, mặc dù mô tả này thường là bất khả tri về nội dung của 
hàm thỏa dụng. 
Như đã nói trước đó, lý thuyết chọn lựa duy lý có xu hướng phát 
triển thành các lý thuyết của tất cả đời sống xã hội tìm kiếm sự giải thích 
hầu như mọi hiện tượng trong xã hội, bao gồm những loại hình chọn lựa 
cộng đồng. Do đó, lý thuyết này yêu cầu đại diện cho một "khuôn khổ lý 
thuyết phổ quát về sự lựa chọn và hành vi duy lý " (Hodgson 1998:168). 
Về nhận thức luận, đặc biệt là về các đặc điểm kỹ thuật, quy mô và sự 
xác định, lý thuyết chọn lựa duy lý thick hoặc linh hoạt trong xã hội học 
có thể được đặt vấn đề nhiều hơn so với các lý thuyết trái ngược nó là 
cứng nhắc hay thin trong kinh tế. Loại thứ hai ít nhất phù hợp với một 
miền xác định. Tuy nhiên, chúng thường giả định không thực tế so với 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 43 
thế giới thực (đối với một loạt các tình huống, cf., Frey và Oberholzer-
Gee 1997). Điều giả định này xa thực tế có thể biểu lộ như "điểm tấn 
công" vào lý thuyết lựa chọn duy lý (mỏng), cũng là đối tượng nhiều nhà 
phê bình về nó (Archer và Tritter 2000). 
Mặt khác, hình thức một lý thuyết giả định chữa được tất cả 
(Collins 1986) là không phù hợp nội tại và thậm chí trái ngược – chẳng 
hạn như mọi thứ mà con người làm là hợp lý - với phạm vi vô hạn/ không 
xác định, do đó trở thành vòng tròn tầm thường hoặc đơn giản. Và vì tính 
chất lặp thừa, “thuật giả kim” độ thỏa dụng làm nó hòa trộn tất cả mọi 
thứ thành thỏa dụng, lý thuyết lựa chọn duy lý thick có nguy cơ trở thành 
vô dụng với các nghiên cứu thực nghiệm cũng như để xây dựng các lý 
thuyết. Nhìn lại, sự nguy hiểm này lan ra, ánh sáng của lý thuyết chọn lựa 
duy lý, hay cộng đồng "(Buchanan 1991) cảnh báo chống lại sự nguy 
hiểm của phép lặp thừa được hàm ý trong lý thuyết chọn lựa mở rộng 
hoặc dày đặc, đặc biệt là hàm thỏa dụng toàn diện gộp lại với tất cả kết 
quả của con người, cũng như giải pháp được đề nghị bằng cách hạn chế 
các mục tiêu giả kinh tế (Miller 1997). Nó cũng làm nổi bật những lập 
luận cho việc không thể hoặc vô ích của việc chỉ trích giả định tối ưu hóa 
độ thỏa dụng biên hoặc "pháp luật" (Machlup 1963), và như vậy lý thuyết 
lựa chọn duy lý cũng dựa trên giả thuyết này. 
Bất cứ tỷ lệ nào, lý thuyết lựa chọn duy lý cũng tìm ra được chính 
nó giữa Scylla của quan niệm thin phi hiện thực thực nghiệm và các 
Charybdis về phép lặp thừa sai lầm của các lý thuyết dày giả toàn bộ 
hành vi duy lý. Các vấn đề trước đe dọa để làm cho lý thuyết không liên 
quan đến sự hiểu biết và giải thích tổ chức xã hội và hành vi đời sống 
thực, thứ hai để báo hiệu kết quả của nó khi chúng ta biết, ví dụ, một mô 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 44 
hình kinh tế của xã hội, bằng cách chuyển đổi nó thành một lý thuyết 
vòng tròn phổ quát. 
Hơn nữa, một số mâu thuẫn nội tại trong lý thuyết lựa chọn duy lý 
cũng có thể giúp trả lời câu hỏi là liệu mô hình thick hoặc mềm có đầy đủ 
nhiều hơn hay ít hơn so với các đối tác của họ đầy đủ mỏng hoặc cứng. 
Tất cả những mâu thuẫn liên quan đến một phương trình ban đầu của 
hành vi hợp lý với tối đa hóa độ thỏa dụng, và sau đó ngầm chối bỏ 
phương trình ad-hoc. Ví dụ, luật cầu được coi là bao hàm sự tối đa hóa độ 
thỏa dụng của người tiêu dùng và đó là mẫu điển hình về hành vi duy lý. 
Do đó, đảo ngược quy luật cầu cũng như nghịch lý của Veblen về vị thế - 
xu hướng được coi là trường hợp của hành vi phi duy lý, tức là không tối 
đa hóa độ thỏa dụng - trong các mô hình cứng nhắc hay linh hoạt. Tuy 
nhiên, trong các mô hình dày hoặc linh hoạt này, những sự đảo chiều liên 
quan đến một số loại tối đa hóa độ thỏa dụng hay thoả mãn và do đó hành 
vi hợp lý, với tất cả các mục đích hành động, bao gồm cả địa vị xã hội, 
được bao gồm trong hàm thỏa dụng bao quát. Như vậy, tối đa hóa độ thỏa 
dụng ví như tìm kiếm vị thế hay quyền lực liên quan đến việc đảo chiều 
của luật kinh tế được coi là hành vi duy lý trong các mô hình dày, và là 
một sự phi duy lý trong các mô hình mỏng! Trong trường hợp luật cầu, 
tối đa hóa độ thỏa dụng phản ánh hành vi duy lý, mà trong nghịch lý của 
Veblen đó là hành vi phi duy lý! 
Một mâu thuẫn tiếp theo cũng đòi hỏi phải tối ưu hóa tiện ích 
tương ứng với hành vi hợp lý, nhưng sau đó đã phủ nhận phương trình 
này. Thứ nhất, độ thỏa dụng tối đa hóa hành vi cụ thể liên quan đến việc 
tối đa hóa thu nhập tiền tệ hoặc lợi nhuận như là một mẫu giả định của 
kinh tế duy lý. Do đó, trong các mô hình “thin” đảo ngược tối đa hóa lợi 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 45 
nhuận của các hình thức tìm kiếm mục đích phi kinh tế, ví dụ: thu nhập 
tâm linh, có thể làm giảm thu nhập tiền tệ và do đó không hợp lý về mặt 
kinh tế. Tuy nhiên, kể từ khi mô hình “thick” kết hợp tất cả những động 
cơ này trong các hàm thỏa dụng, bao gồm cả thu nhập tâm linh được xem 
là một phép ẩn dụ cho bất cứ điều gì không được diễn đạt theo tiền tệ, tối 
ưu hóa hoặc thoả mãn đối với các mục tiêu phi tiền tệ cũng sẽ được cho 
trước duy lý các phương trình về hành vi duy lý với hành vi tối đa hóa độ 
thỏa dụng "tổng quát ". Một lần nữa, trong một trường hợp, đó là tìm 
kiếm lợi nhuận, tối đa hóa độ thỏa dụng được coi là duy lý, và trong 
những trường hợp khác, theo đuổi mục tiêu mở rộng tiền tệ là phi duy lý! 
Còn một mâu thuẫn nữa, thừa nhận và phủ định phương trình giữa 
việc tối ưu hóa độ thỏa dụng và hành vi duy lý, được ngụ ý trong việc 
điều trị sự lựa chọn hợp lý của ích kỷ và vị tha. Một mặt, trong lý thuyết 
lựa chọn hợp lý tối đa hóa lợi ích cá nhân hoặc mục đích vị kỷ thường 
đặc trưng bởi hành vi duy lý bằng cách kế thừa tối ưu hóa độ thỏa dụng, 
vì thế hành vi này được gọi là chủ nghĩa cá nhân duy lý (Hechter và 
Kanazawa 1997). Mặt khác, theo đuổi mục tiêu không vụ lợi hoặc vị tha 
thường được coi là phản ánh hành vi không hợp lý, do đó đại diện cho 
một số loại của vị tha phi duy lý. Tuy nhiên, một số mô hình lựa chọn 
duy lý thick mặc nhiên thừa nhận rằng lòng vị tha cũng như vị kỷ có 
thể liên quan đến tối ưu hóa độ thỏa dụng, các mô hình như thế trong 
hàm thỏa dụng bao gồm tất cả kết hợp nhau bao gồm cả động cơ thúc 
đẩy vị kỷ và vị tha. Tuy nhiên, lý thuyết lựa chọn hợp lý thường kết hợp 
sự vị kỷ với hành vi duy lý, và lòng vị tha với hành vi phi duy lý. 
Trên đây ngụ ý một đề xuất nghịch lý trong lý thuyết lựa chọn duy 
lý: hành vi vị tha có thể tối ưu hóa độ thỏa dụng trong các mô hình thick 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 46 
nhưng không hợp lý trong các mô hình thin. Và đây là một mâu thuẫn tẻ 
nhạt: trong một trường hợp giống như ích kỷ, lý thuyết lựa chọn duy lý 
tương đương với hành vi hợp lý tối đa hóa lợi ích, trong một trường hợp 
khác, đó là lòng vị tha. 
Kết luận 
Trong phần trước tôi đã khám phá và thảo luận quan niệm riêng 
biệt về hành vi duy lý trong những gì được giả định là lý thuyết chọn lựa 
duy lý cả về kinh tế học và xã hội học và tiến tới sự chính xác về dạng 
định nghĩa và quan niệm mở rộng về hành vi duy lý cũng như về công cụ, 
kinh tế hay cá nhân và phi kinh tế, ngoài kinh tế hay xã hội. Thảo luận 
này chỉ ra sự tồn tại và sự gia tăng dị thường về quan niệm và phương 
pháp luận khác nhau, sự nghịch lý hoặc bệnh lý (Smelser 1992) mà sự 
hiểu biết và không phân biệt sự mở rộng các quan niệm về công cụ của 
hành vi duy lý tạo ra trong xã hội học và liên quan đến các ngành khoa 
học xã hội khác, cũng như được thiết lập trong kinh tế học tân cổ điển, 
cũng như sự đảm bảo về lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời. Ví dụ, việc 
mở rộng vấn đề đặt ra của lý thuyết kinh tế tân cổ điển, bao gồm người 
tiêu thụ, tính duy lý cũng như tối đa hóa độ thỏa dụng thành những lĩnh 
vực khác chỉ bộc lộ những gì sai quá mức lý thuyết naỳ trong vị trí đầu 
tiên (Ackerman 1997:652). 
Thảo luận này cũng đưa ra những phương cách sửa chữa theo phép 
phân tích những nghiên cứu về bản chất các quy trình của lý thuyết chọn 
lựa duy lý như thế làm cho sự xuất hiện gần đây giống như nguyên bản 
của kinh tế học tân cổ điển, “nguyên thủy” chịu “những sắp đặt trước”, 
thậm chí “mù lòa và ngu mụi” (Akerlof 2002), “sự kỳ dị có thể” 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 47 
(Margolis 1982), “khù khờ một chút” (Etzioni 1999), “một mặt của đồng 
tiền” tốt nhất (Arrow 1990) hoặc “khôi hài” (Friedland và Robertson 
1990). Tóm lại, đa số những nghiên cứu bản chất từ các quy trình này 
sinh ra từ việc không có khả năng hiểu và giải thích sự phức tạp của đời 
sống con người trong xã hội (Sen 1990), bao gồm bản chất phức tạp và 
các việc của chính hành vi duy lý. 
Tất cả các phép thử này nghi ngờ tính khả thi có thể giải thích 
được về lý thuyết chọn lựa duy lý được thiết kế làm mô hình mẫu cho 
khoa học xã hội, bao gồm xã hội học và khoa học chính trị, song song với 
kinh tế học. Phải thừa nhận là, trong phiên bản lý thuyết chọn lựa duy lý 
hiện thời không phải là lý thuyết tổng quát vì nó sử dụng quá nhiều quan 
niệm thô và hẹp về tính duy lý (Boudon 1998:821), được cố gắng để trình 
bày trong phần trước. Quan niệm hẹp này không chú ý đến tình trạng 
logic và bằng chứng thực nghiệm mà hành vi con người có thể là duy lý 
không chỉ về tiêu chuẩn kinh tế mà còn có tiêu chuẩn ngoài kinh tế. Do 
đó, sự cẩu thả là phạm vi ảnh hưởng và làm lộ ra tính duy lý phi kinh tế 
theo hình thức kinh tế học. Hành vi duy lý đó biểu lộ cả tính duy lý về 
kinh tế và duy lý phi kinh tế có thể làm lập luận chủ chốt và suy luận của 
bài này. Do đó, những gì nói trên cho thấy rằng hành vi con người không 
chỉ duy lý về mặt kinh tế mà còn phi duy lý về mặt kinh tế và chưa duy lý 
về mặt phi kinh tế. 
Cuối cùng thì vấn đề đặt ra tăng lên theo những gì làm nên sự khác 
biệt giữa quan niệm về hành vi duy lý gia tăng ở đây và lý thuyết hành 
động duy lý về mặt xã hội học, vì dường như điểm chung của chúng là cả 
hai đều đại diện cho những sự chọn lựa mở rộng sang quan niệm về hành 
vi duy lý mang tính công cụ-kinh tế. Trước tiên, quan niệm về hành vi 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 48 
duy lý trong bài này dự tính trước những mục đích rõ ràng về hành động 
xã hội, trong khi lý thuyết chọn lựa duy lý về xã hội học “thin” có 
khuynh hướng không thể biết(Golthorpe 1998) và sự im lặng (Hechter và 
Kanazawa 1997) về những mục đích này và do đó liên quan đến những 
sai lầm bỏ sót. Thứ hai, quan niệm tổng quan trong bài này không xem 
những mục tiêu kinh tế thiết thực về cơ bản hơn là phi kinh tế; trái với 
vấn đề trước thường có nghĩa công bằng hay mục tiêu trung lập đối với 
mục tiêu thống nhất. Trái lại, cả hai lý thuyết chọn lựa duy lý “thin” và 
“thick” về mặt xã hội học xem các mục tiêu kinh tế là thứ tự đầu tiên liên 
quan với mục tiêu phi kinh tế là thứ tự thứ hai và do đó chứng tỏ hành 
động xã hội là không phải tất cả mục tiêu và động cơ của con người đều 
được gộp vào theo hàm thỏa dụng bao gồm tất cả như trong lý thuyết 
chọn lựa duy lý “thin” về mặt xã hội học, do đó bị gây phiền phức bởi 
công cụ sai lệch với đối tác kinh tế tương ứng. Tuy nhiên, Việc tạo ra 
những sự khác nhau giữa hai quan niệm về chọn lựa duy lý này có thể là 
nội dung của bài báo khác. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 49 
References 
Abell, P. (2000). Putting Social Theory Right? Sociological Theory 
18, 518-523. 
Ackerman, F. (1997). Consumed in Theory: Alternative 
Perspectives on the Economics of Consumption. Journal of Economic 
Issues, xxxi, 651-664. 
Akerlof, G. (2002). Behavioral Macroeconomics and 
Macroeconomic Behavior. American Economic Review 92, 411-433. 
Alexander, J. (1990). Structure, Value, Action. American 
Sociological Review 55, 339-345. 
Archer, M. and J. Tritter (eds.). 2000. Rational Choice Theory. 
London: Routledge. 
Arrow, K. (1990). Economics and Sociology. In R. Swedberg 
(Ed.), Economics and Sociology (pp. 136-148). Princeton: Princeton 
University Press. 
Arrow, K. (1994). Methodological Individualism And Social 
Knowledge. American Economic Review 84, 1-9. 
Arrow, K. (1997). Invaluable Goods. Journal of Economic 
Literature 35, 757-765. 
Barber, B. (1993). Constructing the Social System. New Brunswick: 
Transaction Publishers. 
Baxter, J. (1993). Behavioral Foundations of Economics. London: 
St. Martin’s Press. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 50 
Becker, G. (1976). The Economic Approach to Human Behavior. 
Chicago: University of Chicago Press. 
Becker, G. (1991). A Treatise on the Family. Cambridge: Harvard 
University Press. 
Becker, G. and K. Murphy. (2000) Social Economics. Harvard: 
Harvard University Press. 
Bonham, J. (1992). The Limits of Rational Choice Explanation. In 
J. Coleman, and T. Fararo (Eds.), Rational Choice Theory (pp. 208-227). 
Newbury Park: SAGE Publications. 
Boudon, R. (1981). The Logic of Social Action. London: Routledge 
& Kegan Paul. 
Boudon, R. (1982). The Unintended Consequences of Social Action. 
New York: St. Martin’s Press. 
Boudon, R. (1989). Subjective Rationality and the Explanation of 
Social Behavior. Rationality and Society 1, 173-196. 
Boudon, R. (1996). The `Cognitivist Model”. Rationality & Society 
8, 123-151. 
Boudon, R. (1998). Limitations of Rational Choice 
Theory. American Journal of Sociology 104, 817-826. 
Bourdieu, P. (1988). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: 
Cambridge University Press. 
Bowles, S. (1998). Endogenous Preferences: The Cultural 
Consequences Of Markets And Other Economic Institutions. Journal of 
Economic Literature, 36, 75-111. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 51 
Bowles S., H. Gintis and M. Osborne. (2001). The Determinants of 
Earnings: A Behavioral Approach. Journal of Economic Literature 39, 
1137-1176. 
Buchanan, J. (1991). Constitutional Economics. London: Basil 
Blackwell. 
Coleman, J. (1986). Individual Interests and Collective Action. 
Cambridge: Cambridge University Press. 
Coleman, J. (1988). Social capital in the creation of human 
capital. American Journal of Sociology, 94, S95-120. 
Coleman, J. (1990). Foundations Of Social Theory. Cambridge: 
Harvard University Press. 
Coleman, J. (1994). A rational choice perspective on economic 
sociology. In N. Smelser and R. Swedberg (Eds), The Handbook Of 
Economic Sociology (pp. 166-82). Princeton: Princeton University Press. 
Collins, R. (1986). Is 1980s Sociology In The 
Doldrums? American Journal of Sociology 91, 1336-1355. 
Conlisk, J. (1996). Why Bounded Rationality? Journal of 
Economic Literature 34, 669-700. 
Demsetz, H. (1997). The Primacy Of Economics: An Explanation 
Of The Comparative Success Of Economics In The Social 
Sciences. Economic Inquiry 35, 1-12. 
Elster, J. (1979). Ulysses and the sirens. Cambridge: Cambridge 
University Press. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 52 
Elster, J. (1989). The Cement of Society. Cambridge: Cambridge 
University Press 
Elster, J. (1998). Emotions and economic theory. Journal of 
Economic Literature, 36, 47-74. 
Emirbayer, M. and A. Mische. (1998). What is Agency? American 
Journal of Sociology 103, 962-1023. 
Etzioni, A. (1999). Essays in Socio-Economics. New York: 
Springer. 
Fararo, T. (2001). Social Action Systems. Westport: Praeger. 
Frank, R. (1996). The Political Economy Of Preference 
Falsification. Journal of Economic Literature, 34, 115-123. 
Frey, B. and F. Oberholzer-Gee. (1997). The Cost Of Price 
Incentives: An Empirical Analysis Of Motivation Crowing-Out.American 
Economic Review, 87, 746-755. 
Friedland, R. and A. Robertson. (1990). Beyond the Marketplace. 
New York: Aldine de Gruyter. 
Friedman, J. (1996). The Rational Choice Controversy. New 
Haven: Yale University Press. 
Gerard, B. (1993). The Economics of Rationality. London: 
Routledge. 
Goldthorpe, J. (1998). Rational Action Theory For 
Sociology. British Journal of Sociology, 49, 167-192. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 53 
Granovetter, M. (1985). Economic Action and Social Structure: 
The Problem Of Embeddedness. American Journal of Sociology 91, 481-
510. 
Hayek, F. (1991). Economic Freedom. Oxford: Basil Blackwell. 
Hechter, M. (1990). The Attainment Of Solidarity In Intentional 
Communities. Rationality and Society, 2, 142-155. 
Hechter, M. (1992). Should Values Be Written Out Of The Social 
Scientist’s Lexicon? Sociological Theory, 10, 214-230. 
Hechter, M. (1994). The Role Of Values In Rational Choice 
Theory. Rationality & Society 6, 318-334. 
Hechter, M. and Kanazawa S. (1997). Sociological Rational 
Choice Theory. Annual Review of Sociology, 23, 191- 
214. 
Hirschman, A. (1984). Against Parsimony: Three Easy Ways of 
Complicating Economic Discourse. American Economic Review 74, 89-
96. 
Hodgson, G. (1997). The Ubiquity Of Habits And 
Rules. Cambridge Journal of Economics 21, 663-684. 
Hodgson, G. (1998). The Approach Of Institutional 
Economics. Journal of Economic Literature, 36, 166-192. 
Homans, G. (1990). The Rational Choice Theory And Behavioral 
Psychology. In C. Calhoun, M. Meyer & R. Scott (Eds.),Structures of 
power and constraint. Papers in honor of Peter M. Blau (pp. 77-90). 
Cambridge: Cambridge University Press. 
Translated by Nguyen Ngoc My Tien 
[email protected] Page 54 
Jasso, G. & Opp K. (1997). Probing The Character Of Norms. A 
Factorial Survey Analysis Of The Norms Of Political Action.American 
Sociological Review, 62, 947-964. 
Kalleberg, A. (1995). Sociology And Economics: Crossing The 
Boundaries. Social Forces 73, 1207-1219. 
Kiser, E. (1999). Comparing Varieties of Agency Theory in 
Economics, Political Science, and Sociology: An Illustration from State 
Policy Implementation. Sociological Theory 17, 146-170. 
Kiser E. and M. Hechter. (1991). The Role of General Theory in 
Comparative-historical Sociology. American Journal of Sociology 97, 1-
30. 
Kiser E. and M. Hechter. (1998). The Debate on Historical 
Sociology