Đôi lúc thật khó mà trở thành nhà 
khoa học. Chỉ 5 năm trước, 
Mihaela Skobe, một nhà sinh học 
phân tử hiện đang làm việc tại 
Mount Sinai School of Medicine, 
New York và cộng sự của bà cố 
gắng hết sức nhưng không thể công 
bố công trình về hệ thống bạch 
huyết. Các biên tập viên và các 
phản biện lại cho rằng vấn đề này 
không có gì hấp dẫn. Rất lịch sự 
nhưng thẳng thừng, lá thư từ chối 
công bố kết quả nghiên cứu của bà 
đã được gửi đi từ một tạp chí khoa 
học. “Họ nói rằng những gì trong 
bài báo điều rất đúng nhưng mà hệ 
thống bạch huyết không phải là một 
vấn đề quan trọng”, Skobe kể lại. 
“Hòan tòan không chút quan tâm”
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hệ bạch huyết: Không còn bị coi thường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ bạch huyết: 
Không còn bị 
coi thường 
Đôi lúc thật khó mà trở thành nhà 
khoa học. Chỉ 5 năm trước, 
Mihaela Skobe, một nhà sinh học 
phân tử hiện đang làm việc tại 
Mount Sinai School of Medicine, 
New York và cộng sự của bà cố 
gắng hết sức nhưng không thể công 
bố công trình về hệ thống bạch 
huyết. Các biên tập viên và các 
phản biện lại cho rằng vấn đề này 
không có gì hấp dẫn. Rất lịch sự 
nhưng thẳng thừng, lá thư từ chối 
công bố kết quả nghiên cứu của bà 
đã được gửi đi từ một tạp chí khoa 
học. “Họ nói rằng những gì trong 
bài báo điều rất đúng nhưng mà hệ 
thống bạch huyết không phải là một 
vấn đề quan trọng”, Skobe kể lại. 
“Hòan tòan không chút quan tâm”. 
Thế nhưng tình hình không phải 
như thế. Trước đây, hệ thống bạch 
huyết chỉ được coi là một hệ thống 
dẫn lưu bình thường không đáng 
quan tâm, nhưng hiện nay, hệ thống 
tuần hòan thứ hai của cơ thể này 
đang nổi lên như là một yếu tố 
quan trọng trong nhiều bệnh lý từ 
ung thư cho đến hen suyễn, và nó 
là thành phần sống còn của hệ 
miễn dịch thông thường. Theo như 
những kết quả từ những khám phá 
gần đây, các nhà nghiên cứu đang 
cố gắng xem xét và can thiệp vào 
họat động của hệ bạch huyết nhằm 
giảm thiểu mức độ di căn của ung 
thư, tăng cường hiệu quả của 
vaccine, hoặc chữa trị một số căn 
bệnh gây biến dạng và đau nhức ở 
hệ bạch huyết này (như bệnh phù 
hạch). 
“Nó đang là một lĩnh vực nóng”, 
Michael Detmar, một chuyên gia da 
liễu và nghiên cứu hệ thống bạch 
huyết Harvard Medical School, 
Boston, Massachusetts cho biết. 
Vào lúc này, ông ta nói tiếp, nhiều 
phòng thí nghiệm đang kích họat 
quá trình nghiên cứu từ mạch máu 
cho đến hệ bạch huyết. Dermar là 
một trong những nhà nghiên 
cứu đang tìm cách chứng minh tầm 
quan trọng của của hệ bạch trong 
việc “giúp sức” cho tế bào ung thư 
di căn. Nhiều nhóm khác đang tìm 
kiếm vai trò của hệ bạch huyết 
trong những bệnh viêm nhiễm như 
bệnh hen suyễn hoặc hiện tượng 
đào thải cấy ghép. “Chúng tôi đang 
trong giai đọan đột phá”, Dermar 
cho biết, “Có cảm giác rằng còn 
nhiều thứ lắm để khám phá”. 
Cũng cần nhắc lại rằng hệ thống 
bạch huyết có các mạch với cấu 
trúc dạng van điều này cho phép tế 
bào miễn dịch di chuyển qua lại dễ 
dàng (xem hình minh họa). 
Các bó mạch bí mật 
Điều xem có vẻ lạ lùng là trong cơ 
thể chúng ta lại tồn tại một cơ quan 
mà nó như một vùng đất hoang, 
không ai ngó ngàng tới. Mạch bạch 
huyết đơn giản chỉ là hệ thống dẫn 
lưu, nhưng chúng lại có những đặc 
tính sinh y học khá tinh vi mà 
chúng ta chưa biết. Mạch bạch 
huyết không chỉ thu thập những 
dịch sinh học thấm từ dòng máu 
vào mô và quay trở lại dòng máu, 
mà chúng còn tham gia quá trình 
xử lý chất dịch này, cụ thể là nó 
chuyển chất dịch tới hạch bạch 
huyết nơi đây đang có sẵn các tế 
bào miễn dịch (gọi là tế bào đuôi 
gai dendritic cells), tế bào đuôi gai 
sẽ trình diện những mảnh phân tử 
ngọai lai có trong dịch sinh học này 
tới những tế bào khác, kích họat 
phản ứng miễn dịch xảy ra. 
Thật sự là hệ bạch huyết đóng vai 
trò như một chốt chặn thứ hai đối 
với hệ tuần hòan từ bao đời nay. 
Thế nhưng đặc tính này được khám 
phá lần đầu vào thập niên 1600, và 
nhanh chóng rơi vào quên lãng mãi 
đến 1900 và một lần nữa bị người 
ta bỏ quên cho mãi đến khỏang 10 
năm gần đây. 
Đầu thập niên 1990, Kari Alitalo, 
một nhà nghiên cứu ung thư ở Đại 
học Helsinki, Phần Lan bắt đầu 
nghiên cứu những protein tham gia 
quá trình tạo mạch máu mới. 
Những protein này, gọi là yếu tố 
tăng trưởng nội mạch – vascular 
endothelial growth factors gọi tắt 
là VEGF – kích thích sự tăng 
trưởng của các dòng tế bào nằm lót 
trong mạch máu và nó cho phép 
những mạch máu mới nhú lên. Các 
khối u thường “đánh lừa” các dấu 
hiệu VEGF này khiến cho hệ thống 
mạch máu ưu ái nuôi nấng chúng 
giúp cho quá trình di căn diễn ra 
nhanh và mạnh hơn. Cũng như các 
nhà khoa học khác, Alitalo lập luận 
rằng nếu những dấu hiệu này hoặc 
các thụ thể của chúng bị khóa lại 
thì mạch máu có thể ngừng tăng 
trưởng và tế bào khối u vì thế mà bị 
bỏ đói dần dần cho tới chết. 
Thế nhưng khám phá sau đó của 
Alito và cộng sự lại khiến cho sự 
tập trung của ông rời xa khỏi các 
dấu hiệu tăng trưởng mạch máu và 
lặn hụp trong mối quan tâm về hệ 
thống bạch huyết. Cụ thể là Alitalo 
và cộng sự đã tình cờ tìm thấy một 
thụ quan VEGF mới và thụ quan 
này chủ yếu hiện diện ở các tế bào 
lót bên trong mạch bạch huyết. 
Mặc dù thụ quan này tương tự với 
những thụ quan khác của VEGF đã 
biết, nhưng lạ lùng là cả hai VEGF-
A và VEGF-B đều không tham gia 
kích họat thụ quan này. Vì thế mà 
quá trình dò tìm dấu hiệu bắt đầu. 
Những hy vọng lớn 
Cuối cùng thì nhóm Alito cũng tìm 
thấy dấu hiệu, họ khám phá ra rằng 
nó chính là một dạng yếu tố tăng 
trưởng nội bì tương tự với các 
VEGF đã biết. Họ đặt tên nó 
là VEGF-C và thụ quan có tên 
là VEGFR-3. Bằng cách tạo ra 
dòng chuột di truyền biến đổi có sự 
biểu hiện VEGF-C vượt mức, họ 
nhận thấy là các mạch bạch huyết 
tăng sinh rất mạnh nhưng các mạch 
máu thì không. Do đó VEGF-C 
được coi là một dấu hiệu đầu tiên 
được khám phá cho thấy họat động 
của nó có tính đặc hiệu cho hệ 
thống bạch huyết. 
Cùng lúc đó, Marc Achen và 
Steven Stacker ở Ludwig Institute 
for Cancer Research, Melbourne, 
cũng đang dò tìm các VEGF khác. 
Faxes lặp tức bay từ Melbourne 
qua Helsinky và quay trở lại. Ngay 
sau đó, kết quả hợp tác nhanh 
chóng nhận diện thêm một dấu hiệu 
khác cũng họat động dựa trên 
VEGFR-3, dấu hiệu này dễ dàng 
được đặt tên là VEGF-D. 
“Quả là lý thú”, Alitalo hào hứng. 
Ông ta và các đồng nghiệp người 
Úc hy vọng là những phám của họ 
có thể mở ra hướng chữa trị mới 
giúp tái tạo các mạch bạch huyết ở 
bệnh nhân bị chứng sưng phù hạch 
– ví dụ sau ca phẫu thuật ung thư 
vú. 
Thế nhưng tiến trình công việc thật 
không dễ dàng do các dấu hiệu 
marker dùng trong nghiên cứu hệ 
thống bạch huyết hầu như không 
có. Đó chính là những protein mà 
các nhà khoa học sử dụng để đánh 
dấu đặc hiệu bằng thuốc nhuộm và 
quan sát dễ dàng hơn từ đó giúp 
xác định chính xác mô đang được 
nghiên cứu. 
Mãi đến năm 1999, khi David 
Jackson, một nhà sinh hóa ở 
Weatherall Institute of Molecular 
Medicine in Oxford, khám phá ra 
một protein có tên là LYVE-1, lúc 
này một marker chuyên biệt cho hệ 
thống bạch huyết xuất hiện giúp 
cho quá trình nghiên cứu hệ thống 
bạch huyết bắt đầu đi vào quỹ đạo. 
Từ đó, các nhà nghiên cứu có 
thể dò tìm vai trò của hệ thống 
bạch huyết trong quá trình di căn 
của khối u ung thư. Nhiều khối u, 
như ung thư vú và khối u ác tính, 
lan truyền từ khối u gốc thông qua 
hệ thống bạch huyết tới những cơ 
quan khác; và điều tồi tệ sẽ xảy ra 
nếu các hạch bạch huyết tham gia 
vào quá trình di căn, điều này khiến 
cho quá trình chẩn đóan bệnh sẽ 
không có ý nghĩa. 
Đến đây cần lưu ý một điều rằng 
mặc dù các nhà nghiên cứu đã 
nghiên cứu kỹ lưỡng vai trò của 
mạch máu trong quá trình di căn 
hối u, thế nhưng họ hòan tòan 
không biết chút gì về quan hệ giữa 
tế bào di căn và hệ thống bạch 
huyết. Họ vẫn không hiểu là có 
phải chính các tế bào khối u đã 
“mua chuộc” mạch bạch huyết để 
hệ thống này tăng trưởng và trợ 
giúp chúng di cư hay là hệ thống 
bạch huyết lại vô tình “ngờ ngệch” 
mà “nối giáo cho giặc”. 
Nhóm của Alitalo cùng với 
Michael Pepper, University of 
Geneva Medical Centre, và 
Gerhard Christofori, Research 
Institute of Molecular Pathology in 
Vienna, đã cùng nhau tạo ra một 
dòng chuột cải biến di truyền phát 
triển khối u ở tụy và có mức độ 
biểu hiện VEGF-C cao bất thường 
trên cùng cơ quan. Nhóm nghiên 
cứu thấy rằng các mạch bạch huyết 
đã mọc nhanh ở khối u của con vật. 
Và hơn vậy nữa,mạch bạch huyết 
của con vật còn chứa các tế bào 
khối u vốn có nguồn gốc từ tuyến 
tụy. 
Một nhóm nghiên cứu khác cũng 
đã tìm thấy bằng chứng cho thấy 
chính hệ thống bạch huyết đã chủ 
động kích họat cho khối u di căn. 
Detmar và Skobe đã ghép khối ung 
thứ vú người, vốn được cải biến 
sao cho tạo ra nhiều VEGF-C, vào 
chuột và kết quả cho thấy rằng 
mạch bạch huyết đã lan tỏa trong 
khối u được ghép vào. Một bằng 
chứng khác cũng khẳng địng rằng 
mạch bạch huyết tăng trưởng đến 
đâu thì khối u lan tỏa trong hạch 
bạch huyết đến đó và lan cả vào 
phổi. 
Đến đây một ít nghi vấn được đặt 
ra cho rằng quan hệ giữa khối u và 
hệ bạch huyết chính là con đường 
chính để các khối u ung thư rắn sử 
dụng để di căn. Và liệu các bác sỹ 
có thể can thiệp vào mối quan hệ 
“ác độc” này hay không? Hòan 
tòan có thể. Stacker và Achen và 
cộng sự từ Melbourne cho thấy 
rằng VEGF-D, giống như VEGF-C, 
có khả năng kích họat cho mạch 
bạch huyết tăng sinh bên trong khối 
u cấy ghép trên chuột. Nó còn gia 
tăng mức độ lan tỏa của khối u 
trong hạch bạch huyết. Nhưng khi 
VEGF-D bị khóa lại thì quá trình 
di căn có thể bị áp chế. 
Nhóm của Alitalo, cùng lúc đó, 
chứng minh rằng chuột cải biến di 
truyền mang VEGF-C và VEGF-D 
bị khóa lại sẽ khiến cho quá trình 
tạo mạch bạch huyết mới không 
hình thành, mạch bạch huyết lúc 
này co rúm lại. Nhóm nghiên cứu 
sau đó, khóa dấu hiệu VEGF-C và 
VEGF-D ở chuột, rồi cấy ghép khối 
u ung thư vú của người vào cơ thể 
chúng, kết quả nhận được là mức 
độ lan tỏa của khối u giảm đi 2/3. 
Điều này ngụ ý rằng khi VEGF-C 
và VEGF-D bị khóa thì cũng có 
nghĩa chận đứng mức độ di căn của 
khối u, đặc biệt nếu thực nghiệm 
thành công trên chuột thì hòan tòan 
có thể hy vọng thành công trên 
người. 
Từ chuột đến người. 
Bằng chứng cho thấy rằng những 
khối u ở người cũng có “tính nết” 
như khối u ở chuột. Xem xét một 
lọai các khối u, người ta nhận thấy 
khối u nào có mức độ VEGF-C và 
VEGF-D cao thì chúng rất “khóai” 
di căn. Điều đó cũng đưa tới một 
quy luật tổng quát rằng, nếu có 
nhiều mạch bạch huyết trong khối u 
nghĩa là khối u càng nguy hiểm. 
Stacker và Achen hy vọng rằng các 
lọai thuốc thử nghiệm khóa VEGF-
C và VEGF-D sẽ sớm có mặt. 
Achen còn chỉ ra rằng, một lọai 
kháng thể có tên bevacizumab, 
hoặc còn có tên Avastin, có tác 
dụng kiềm hãm sự tăng trưởng 
mạch máu trong quá trình lan tỏa 
của khối u đã thực sự giúp bệnh 
nhân kéo dài sự sống. 
Nhưng Alitao cảnh báo rằng những 
thử nghiệm như thế cần rất nhiều 
thời gian. Một vấn đế, ông ta nói, 
đó là quá trình di căn có thể là một 
quá trình chậm chạp, do đó mà các 
công ty dược rất thận trọng với 
những thử nghiệm tốn nhiều tiền 
bạc và thời gian chẳng hạn kéo dài 
đến 3 năm mới cho kết quả. 
Thật sự, những kết quả nghiên cứu 
đã kể ở trên không phản ánh đầy đủ 
những hiểu biết của chúng ta về hệ 
bạcn huyết, nó vẫn còn cất giấu 
những bí mật to lớn sau tay áo của 
nó. Trong vài năm qua, vài nhóm 
nghiên cứu đã cố gắng dò tìm bằng 
chứng để chứng minh liệu có phải 
hệ bạch huyết chính là thủ phạm 
chính trong những chứng viêm 
không mong muốn ở người hay 
không?. Quá trình viêm tấy đóng 
vai trò rất quan trọng trong bệnh 
hen suyễn, ở Anh nó khỏang 5 triệu 
nạn nhân của chứng bệnh này. 
Dontscho Kerjaschki, một nhà bệnh 
lý học ở Medical University of 
Vienna, đã và đang nghiên cứu điều 
gì xảy ra khi thận cấy ghép bị đào 
thải. Thông thường vùng vỏ thận, 
nơi diễn ra quá trình lọc máu, hầu 
như kô có mạch bạch huyết. Nhưng 
Kerjaschki tìm thấy là ở 1/3 mẫu 
sinh thiết thận cấy ghép số lượng 
mạch bạch huyết tăng lên đến 50 
lần. Trong hầu hết trường hợp, 
những mẫu sinh thiết đều có nguồn 
gốc từ các bệnh nhân mắc hiện 
tượng “đào thải kinh niên”, là một 
dạng bệnh lý mà các mảnh cấy 
ghép bị hệ thống miễn dịch tấn 
công liên tục bất chấp bệnh nhân đã 
đươc uống thuốc chống đào thảo 
ban đầu cho đến khi mô hay cơ 
quan cấy ghép bị đào thải hòan 
tòan. Kerjaschki suy nghĩ rằng hệ 
thống mạch bạch huyết tăng sinh 
bất thường có thể liên quan đến 
hiện tượng trên, giả định rằng 
chúng mang những tế bào miễn 
dịch đến mảnh cấy ghép. “Có thể 
hệ thống bạch huyết đã dàn dựng 
tòan bộ cái thảm họa này”, ông ta 
gợi ý. 
Ý tưởng cho rằng hệ bạch huyết 
“có một trí thông minh khác 
thường” bắt nguồn từ khám phá của 
nhóm Kerjaschki, khi họ tìm thấy 
một protein có tên là podoplanin. 
Podoplanin đính lên một phân tử 
gọi là CCL21 vốn tìm thấy chủ yếu 
ở mạch bạch huyết. CCL21 là “một 
kẻ quyến rũ” mà các tế bào miễn 
dịch như tế bào đuôi gai hay đại 
thực bào không thể cưỡng lại được. 
Ở mảnh thật cấy ghép, vốn đang 
chứa nhiều tế bào viêm, phức hợp 
CCL21 và podoplanin phân rã để 
phóng thích CCL21 vào mạch và 
thu hút thêm các dòng tế bào viêm 
khác. 
Kẻ chủ mưu 
Một bằng chứng kết khác kết tội hệ 
bạch huyết liên quan đến các phản 
ứng miễn dịch gây hại đã được 
Donald McDonald, một nhà sinh 
học hệ mạch, University of 
California, San Francisco cung cấp. 
Nhóm của McDonald nghiên cứu 
mô hình chuột hen suyễn bằng cách 
tiêm vi khuẩn Mycoplasma 
pulmonis vào phổi chuột một cách 
thường trực, Mycoplasma 
pulmonis là vi khuẩn gây nên hiện 
tượng màng nhày phổi bị sưng tấy 
lên, làm thay đổi lớp tế bào lót 
thành mạch – là những triệu chứng 
thường gặp ở người mắc bệnh hen 
suyễn. Kết quả, nhóm của 
McDonald thấy rằng khí quản của 
chuột bị nhiễm khuẩn Mycoplasma 
pulmonis có sự gia tăng bất thường 
mạch bạch huyết, đồng thời mạch 
máu của phổi cũng tăng theo. Khi 
cho chuột uống kháng sinh thì 
mạch máu co rúm lại nhưng phần 
mạch bạch huyết tăng sinh vượt 
mức vẫn … trơ trơ. 
“Đó là một điều đáng ngạc nhiên”, 
McDonald thốt lên. Ông giả định 
rằng những mạch bạch huyết mới 
sinh đã giúp cho phổi thực hiện các 
phản ứng miễn dịch nhanh chóng 
và “tàn khốc” với quá trình xâm 
nhiễm của vi khuẩn và “chọc tức” 
quá trình viêm. Nhóm tác giả này 
hiện đang tìm kiếm dấu hiệu phân 
tử liên quan đến cơ chế sinh học nó 
trên và hy vọng là nó sẽ giúp điều 
khiển các phản ứng viêm nhiễm để 
điều trị bệnh hen suyễn. 
Quay trở lại Helsinki, nơi xuất phát 
mọi vấn đề, Alitalo hiện nay khá 
lạc quan. Ông ta hạnh phúc thấy 
rằng những câu hỏi cơ bản nhất đã 
và đang được trả lời, chẳng hạn làm 
thế nào mà tế bào ung thư có thể di 
chuyển đến các cơ quan khác thông 
qua hạch bạch huyết và làm thế 
nào mà tế bào ung thư xâm nhập 
một cách chính xác và đúng chỗ 
vào mạch bạch huyết? 
Còn Skobe? Bà ta và cộng sự đang 
cố gằng tìm kiếm những phân tử 
nào trong mạch bạch huyết liên 
quan đến quá trình di căn của tế 
bào ung thư. Skobe không kể chi 
tiết về những gì bà ta đang làm. 
Nhưng lần nay không như những 
kỳ trước, khi bà ta có kết quả để 
công bố, Skobe sẽ được các biên 
tập viên các tờ tạp chí chuyên 
ngành … săn đón 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 he_bach_huyet_6661.pdf he_bach_huyet_6661.pdf