Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 400
HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ THẦN KINH ĐÙI – HÔNG TO  
CÓ MÁY KÍCH THÍCH TRONG PHẪU THUẬT VÙNG CẲNG CHÂN 
Vũ Minh Hùng*, Nguyễn Hồng Sơn** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: So sánh gây tê tủy sống với gây tê thần kinh đùi – hông to dưới sự trợ giúp của máy kích thích 
thần kinh trong phẫu thuật vùng cẳng chân về hiệu quả vô cảm, sự ổn định huyết học trong phẫu thuật. Thời 
gian giảm đau, tai biến, tác dụng phụ sau phẫu thuật.  
Phương pháp: Một trăm bốn mươi bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: 70 bệnh nhân 
được gây tê tủy sống bằng 12 mg bupivacaine (đẳng trọng) và 20 mcg fentanyl ở tư thế ngồi; 70 bệnh nhân 
được gây tê thần kinh đùi ‐ hông to với 20 ml bupivacaine 0,5% và adrenaline 1/400000 cho dây thần kinh 
hông to ; 15 ml cho dây thần kinh đùi ở tư thế nằm. Dưới sự trợ giúp của máy kích thích thần kinh, hiệu quả 
tê của hai nhóm được đánh giá sau ba mươi phút. Điểm đau VAS sau 24 giờ, tỉ lệ sử dụng thuốc giảm đau, 
tác dụng phụ được ghi nhận.  
Kết quả: Phong bế cảm giác đạt được trong 100% ở nhóm tê tủy sống, 97,1% ở nhóm tê thần kinh đùi – 
hông to. Nhịp tim chậm hoặc tụt huyết áp không quan sát thấy ở nhóm tê thần kinh đùi – hông to. Điểm đau 
VAS, tỉ lệ sử dụng thuốc giảm đau 24 giờ sau phẫu thuật nhóm tê thần kinh đùi – hông to thấp hơn nhóm TTS. 
Kết luận: Gây tê tủy sống và tê thần kinh đùi – hông to hiệu quả tương tự nhau. Gây tê thần kinh đùi – 
hông to giảm tỉ lệ tai biến, tác dụng phụ so với TTS. 
Từ Khóa: Bupivacaine, adrenaline, gây tê tủy sống, gây tê thần kinh đùi – hông to, phẫu thuật chỉnh hình 
ABSTRACT 
EFFECTS OF BLOCK OF FEMORAL ‐ SCIATIC NERVE WITH NERVE STIMULATOR  
IN CRUS SURGERY 
Vu Minh Hung, Nguyen Hong Son  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 400 - 404 
Background‐objectives: Comparison of spinal block with femoral ‐sciatic nerve block with nerve stimulator 
in  crus  surgery  about  analgesic  efficiency,  hemodynamic  stability  during  surgery,  analgesic  duration, 
complications, side effects after surgery. 
Method: One hundred and  forty patients were  randomized  into  two groups: 70 patients  received  spinal 
block with bupivacaine 12 mg (bupivacaine plain) and 20 mcg fentanyl in a sitting position, 70 patients received 
femoral ‐ sciatic nerve block with the 20 ml of 0.5% bupivacaine and adrenaline 1/400.000 for the sciatic nerve 
and 15 ml for femoral nerve in lying position. Under the help of nerve stimulator, the analgesic effect of the two 
groups  were  evaluated  after  thirty  minutes.  VAS  pain  scores  after  24  hours,  the  rate  of  use  of  analgesic 
medications, side effects were noted. 
Results:  Block  of  sensation  achived  100%  in  the  spinal  block  group,  and  97.1%  in  the  femoral  and 
sciatic nerve block group. Bradycardia or hypotension was not observed in the femoral and sciatic nerve block 
group. VAS pain scores, the rate of analgesic medications were used 24 hours after surgery  lower than the 
spinal block group. 
Conclusion: Spinal block and femoral ‐sciatic nerve block are similar analgesic effect. Femoral ‐sciatic nerve 
Bệnh viện 7A – Cục Hậu cần – Quân khu 7  ** Bệnh viện 175 
Tác giả liên lạc: Bs. Vũ Minh Hùng   ĐT:0913939026   Email:
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  401
block reduces the rate of complications, side effects when compares with spinal block. 
Keywords: Bupivacaine, adrenaline, spinal block, Femoral ‐sciatic nerve block, orthopedic surgery. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chấn  thương  chi  dưới  thường  gặp  nhất 
trong các chấn thương. Theo một khảo sát năm 
2008  –  2009  của  tác  giả  Cao  Thỉ(2),  trong  5231 
trường hợp gãy xương chi dưới cần phẫu thuật 
thì  gãy  xương  cẳng  chân  có  4821  trường  hợp 
chiếm (40,22%). 
Các phương pháp vô cảm cho phẫu thuật chi 
dưới  bao  gồm:  tê  tủy  sống  (TTS),  ngoài màng 
cứng, mê nội khí quản... TTS  thường  được  lựa 
chọn do hiệu quả vô cảm tốt, kĩ thuật đơn giãn, 
dễ  thực hiện,  ít  đòi hỏi  sự hổ  trợ phương  tiện 
máy móc đắt tiền. Tuy nhiên TTS cũng có những 
mặt hạn  chế  trong và  sau phẫu  thuật như:  tụt 
huyết áp,  rét  run, nhức  đầu,  đau  lưng, bí  tiểu, 
ngứa... Ngoài ra, TTS còn có chống chỉ định trên 
các bệnh nhân có bệnh lí đông máu, tăng áp lực 
nội sọ và chưa phù hợp với các trường hợp chỉ 
phẫu thuật một bên chi. Hơn nữa thời gian giảm 
đau  sau  phẫu  thuật  ngắn,  bệnh  nhân  phải  sử 
dụng  nhiều  loại  thuốc  giảm  đau  trong  đó  có 
thuốc  phiện,  hậu  quả  là  phải  chịu  nhiều  tác 
dụng phụ bất lợi của thuốc giảm đau(9,14). 
Thần kinh đùi – hông to xuất phát từ đám 
rối  thắt  lưng  ‐ cùng chi phối cảm giác và vận 
động cho chi dưới. Tê thần kinh đùi ‐ hông to 
là  phương  pháp  đưa  thuốc  tê  vào  đường  đi 
của dây  thần kinh dưới  sự  trợ giúp  của máy 
kích thích thần kinh, là phương pháp hiệu quả, 
an  toàn  trong phẫu  thuật và để giảm đau sau 
phẫu  thuật. Tê  thần kinh  đùi – hông  to  được 
Winnine thực hiện năm 1973 để giảm đau sau 
phẫu thuật khớp gối ‐ háng và cho phẫu thuật 
chi dưới. Từ đó tới nay có rất nhiều công trình 
nghiên cứu thành công về kết hợp gây tê thần 
kinh đùi – hông  to dưới sự  trợ giúp của máy 
kích thích thần kinh áp dụng trong phẫu thuật 
và giảm đau cho chi dưới nói chung và vùng 
cẳng chân nói riêng(1,3,5). 
Ở Việt Nam do hạn chế về vật chất và con 
người kĩ  thuật gây  tê  thần kinh  đùi  – hông  to 
cho  phẫu  thuật  chi  dưới  mới  được  áp  dụng 
trong  thời  gian  gần  đây  đạt  kết  quả  tốt.  Tuy 
nhiên, chưa có nghiên cứu nào được  thực hiện 
để  đánh  giá  hiệu  quả  của  kĩ  thuật  này  trong 
phẫu thuật vùng cẳng chân(11,12,13,14). 
Câu hỏi nghiên cứu: gây  tê  thần kinh đùi  ‐ 
hông to với sự trợ giúp của máy kích thích thần 
kinh  hiệu  quả  vô  cảm  trong  phẫu  thuật,  thời 
gian giảm đau sau phẫu thuật, tai biến, tác dụng 
phụ  như  thế  nào  so  sánh  với TTS  trong  phẫu 
thuật vùng cẳng chân. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Được sự chấp thuận của hội đồng khoa học 
Bệnh viện 7A – Cục Hậu cần – Quân khu 7 và 
đồng ý  của  các bệnh nhân  có kí giấy  cam kết. 
Trong  thời gian  từ  tháng 5 – 2012  tới 5 – 2013; 
140 bệnh nhân  có ASA  I –  III,  tuổi  trung bình: 
36,8  tuổi,  cân nặng và  chiều  cao  trung  bình  là 
57,04 kg và 163,6 m  ở cả hai nhóm phẫu  thuật 
vùng cẳng chân được đưa vào nghiên cứu. Tiêu 
chuẩn loại trừ là các bệnh nhân có tiền sử dị ứng 
thuốc tê, rối loạn đông máu, nhiễm trùng tại chổ 
hoặc  toàn  thân,  tổn  thương  thần kinh  chi phối 
chi dưới, chỉ số BMI > 25 kg/m2. 
Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên bằng 
cách bốc thăm chia thành 2 nhóm, nhóm 1: gây 
tê thần kinh đùi – hông to (tê TKNV) với hỗn 
hợp  thuốc  tê  bupivacaine  0,5%  và  adrenaline 
1/400000 với 20ml cho thần kinh hông to và 15 
ml cho  thần kinh đùi. Nhóm 2: gây TTS bằng 
bupivacaine  0,5%  (đẳng  trọng)  và  20  mcg 
fentanyl. 
Kĩ thuật tiến hành 
Tất  cả  bệnh  nhân  đều  được  tiền mê  1 mg 
midazolame  và  50 mcg  fentanyl  với  nhóm  tê 
TKNV và 1mg midazolame với nhóm TTS. 
Bệnh nhân TTS ở tư thế ngồi, đầu vai gập. 
Sát  trùng  da  bằng  dung  dịch  povidin,  mốc 
chọc  kim  L4,  5,  đường  giữa  với  kim  25 G  (B. 
Braun). Khi kim qua dây  chằng vàng  có  cảm 
giác nhẹ tay, rút cây thông nòng thấy dịch não 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 402
tủy trong suốt chảy ra đốc kim. Tiến hành bơm 
chậm 12 mg bupivacaine 0,5% (đẳng trọng) và 
20 mcg fentanyl. 
Gây  tê  thần kinh đùi với bệnh nhân  tư  thế 
nằm ngữa, mốc chọc kim là dưới dây chằng bẹn 
1 – 1,5 cm, ngoài động mạch đùi 1 – 1,5cm. Với 
máy  kích  thích  và  kim  dò  thần  kinh  bọc  cách 
điện dài 10  cm,  cường  độ  1,5 mA,  tần  số phát 
xung  1 Hz  tiến  hành  xác  định  vị  trí  dây  thần 
kinh đùi. Khi có đấu hiệu co cơ tứ đầu đùi và di 
chuyển xương bánh chè, hạ cường độ xuống 0,5 
mA dấu co cơ vẫn còn. Tiến hành tiêm liều thử 
sau  đó  tiêm  hết  15ml  thuốc  gồm:  bupivacaine 
0,5%  và  adrenaline  1/400000,  thử  lại mỗi  5ml. 
Gây tê thần kinh hông to với bệnh nhân tư  thế 
(SIM): gập hông, co gối. Mốc chọc kim  là điểm 
giữa mấu chuyển lớn xương đùi và ụ ngồi. Với 
máy  kích  thích,  xác  định  vị  trí  dây  thần  kinh 
hông  to, khi  có dấu gấp bàn  chân, ngón  chân, 
xoay  ngược  bàn  chân  vào  trong,  hạ  cường  độ 
xuống còn 0,5 mA dấu co cơ vẫn còn đáp ứng, 
bơm liều thử sau đó bơm hết 20ml thuốc tê gồm: 
bupivacaine và adrenaline 1/400000. 
Đánh  giá mức  phóng  bế  cảm  giác  và  vận 
động  sau  30  phút  gây  tê  bằng  cảm  giác  nhiệt 
lạnh và thang điểm Bromage. 
Các  thông  số mạch,  huyết  áp,  SpO2,  điểm 
đau VAS được đánh giá mỗi 5 phút sau 30 phút 
gây tê cho tới khi kết thúc phẫu thuật. Hạ huyết 
áp (huyết áp tâm thu giảm >20 % chỉ số lúc đầu), 
xữ  trí  bằng  ephedrine  6 mg  tĩnh mạch. Nhịp 
chậm  khi  <  50  lần/  phút,  xử  trí  bằng  atropine 
0,5mg tĩnh mạch. 
Chất  lượng  vô  cảm  được  đánh  giá  theo 
nhu  cầu  sử  dụng  thuốc  giảm  đau  tĩnh mạch 
(tốt: không sử dụng; trung bình: 50 – 100 mcg 
fentanyl,  hoặc  phối  hợp  thêm  50  –  100  mg 
propofol  tĩnh  mạch  liều  duy  nhất  trong  thì 
rạch da; kém: phải  chuyển phương pháp gây 
mê toàn thân). 
Sau phẫu thuật tại phòng hồi tỉnh bệnh nhân 
được  theo dõi: mạch, huyết áp, SpO2, nhịp  thở, 
điểm đau VAS tại các thời điểm 1, 3, 6, 12, 18, 24 
giờ. Khi VAS > 3 cho paracetamol 1g tĩnh mạch, 
nếu  chưa  hiệu  quả  cho morphine  0,04 mg  /kg 
tĩnh mạch tới khi điểm đau VAS < 3. Lập lại sau 
4 – 6 giờ hoặc khi bệnh nhân có nhu cầu bổ sung 
giảm đau. 
Ghi nhận  các  tai biến,  tác dụng phụ:  chạm 
mạch, nhức  đầu,  đau  lưng, bí  tiểu,  tổn  thương 
thần kinh... 
Số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Các biến định tính được tính bằng tần số và tỉ lệ 
phần trăm, các biến định lượng được tính bằng 
trung bình, độ  lệch chuẩn với p < 0,05  thì có ý 
nghĩa thống kê. 
 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm Nhóm tê TKNV Nhóm TTS p 
Tuổi 33,5(24 -47) 32,5(23 – 47) 0,93 
Cân nặng 56,5(8,6) 57,5(9,2) 0,50 
Chiều cao 163,9 (6,8) 163,2(6,4) 0,50 
BMI 20,9(2,3) 21,5(2,8) 0,17 
Nam 51(72,9) 49(70) 0,78 
Nữ 19(27,1) 21(30) 
Không  có  sự  khác  biệt  về  tuổi,  cân  nặng, 
chiều cao, chỉ số BMI giữa hai nhóm. Đa số ở 
lứa tuổi lao động, tỉ lệ nam nhiều hơn nữ ở cả 
hai nhóm. 
Bảng 2: Hiệu quả tê giữa hai nhóm 
Hiệu quả Nhóm tê TKNV Nhóm TTS P 
Tê tốt 68(97,1) 70(100) 
Không hoàn toàn 2(2,8) 0 0,49 
Thất bại 0 0 
Tổng cộng 70 70 
Hiệu quả tê giữa hai nhóm là tương tự nhau, 
với p = 0,49. 
Biểu đồ 1: Điểm đau VAS tại các thời điểm  
Điểm đau VAS trước và sau 30 phút gây tê ở 
cả hai nhóm thay đổi có ý nghĩa thống kê. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  403
Bảng 3: Tỉ lệ sử dụng thuốc thêm trong phẫu thuật 
Thuốc sử dụng Nhóm tê TKNV Nhóm TTS 
Thuốc co mạch 0 13(18,6) 
Thuốc tiền mê 70(100) 70(100) 
Propofol liều duy nhất 5(7,1) 1(1,4) 
Thêm 1mg hypnovel 12(17,1) 0 
Thêm 2mg hypnovel 5(7,1) 0 
Thêm 50 mcg fentanyl 811,4) 0 
Thêm 100 mcg fentanyl 2(2,8) 0 
Tỉ lệ sử dụng thuốc thêm trong phẫu thuật giữa 
hai nhóm thay đổi không ý nghĩa thống kê. 
Biểu đồ 2: Hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật 
Nhóm tê TKNV điểm đau VAS < 3 từ 9 tới 
12 giờ. Nhóm TTS điểm đau VAS > 3 điểm từ 3 
tới 6 giờ, giảm khi dùng thuốc. Điểm đau VAS 
sau 24 giờ của cả hai nhóm giảm dần theo thời 
gian.  Sự  thay  đổi  điểm  đau VAS  24  giờ  sau 
phẫu thuật giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 4: Tỉ lệ dùng thuốc giảm đau sau phẫu thuật 
giữa hai nhóm 
Số lần yêu cầu 
Thuốc 
Nhóm tê TKNV 
Paracetamol 1g 
Morphine 
Nhóm TTS 
Paracetamol 1g 
Morphine 
Lần 1 5(16,7) 2(3,4) 25(35,7) 57(81,4) 
Lần 2 0 0 45(64,3) 13(18,6) 
Tỉ  lệ sử dụng  thuốc giảm đau sau 24 giờ ở 
nhóm tê TKNV thấp hơn nhóm TTS. 
Tai biến và tác dụng phụ 
Ở  nhóm  tê  TKNV  không  ghi  nhận  trường 
hợp nào chạm mạch,  tổn  thương TK cũng như 
nhức đầu, đau  lưng, bí  tiểu, ở nhóm TTS nhức 
đầu: 8,5%, đau  lưng: 10%, bí  tiểu: 7%. Sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê.  
KẾT LUẬN  
Gây  tê TK đùi – hông  to dưới sự  trợ giúp 
của máy kích thích TK với  liều thuốc tê 20 ml 
bupivacaine  0,5%  và  adrenaline  1/400000  cho 
TK  hông  to  và  15 ml  cho  TK  đùi  là  phương 
pháp hiệu quả, an toàn, kĩ thuật dễ thực hiện. 
Hiệu  quả  tương  tự  như  TTS  cho  phẫu  thuật 
vùng cẳng chân. 
Hiệu  quả  vô  cảm  trong  phẫu  thuật:  tốt 
97,1%,  trung bình 2,8 %, không  có  trường hợp 
nào thất bại phải chuyển phương pháp vô cảm 
khác.  Ổn  định  M,  HA,  SpO2,  nhịp  thở  trong 
phẫu thuật. 
Hiệu  quả  giảm  đau  sau  phẫu  thuật:  điểm 
đau VAS 24 giờ sau phẫu thuật thấp hơn so với 
nhóm TTS. Giảm tỉ lệ sử dụng thuốc giảm đau, 
hạn chế tác dụng phụ của thuốc. Ít liệt vận động 
giúp bệnh nhân tập vận động sớm, phòng chống 
thuyên  tắc,  nhiễm  trùng,  rút  ngắn  ngày  nằm 
viện, giảm chi phí điều trị, giảm tỉ lệ tai biến, tác 
dụng phụ so với nhóm TTS. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Allen  JG,  Denny  NM  (1989),  “  Postoperative  analgesia 
following  total  knee  arthroplaty:  a  study  comparing  spinal 
anesthesia and combined sciatic – femoral 3 in 1 block”, Red 
Anesth Pain Med, vol (23): 143 ‐146 
2. Cao Thỉ  (2010), “Khảo  sát  các gãy xương  lớn  tại bệnh viện 
Chợ Rẫy  trong 2 năm 2008 – 2009”, Y Học Thực Hành,  số 8 
(729), tr. 39 – 40. 
3. Cappelliri  G,  Casiti  A,  Fanelli  G,  et  al  (2000):  “Unitateral 
spinal anesthesia or combinated sciatics femoral nerve block 
for  day  case  knee  arthroscopy,prospective  radomized 
comparison Minena”, Anestesiol; 66 (3): 131‐ 136. 
4. Casiti  A,  Cappelliri  G,  Breti  M  et  al  (2002),“Radonined 
comparison  of  remifentanyl  –  propofol  with  a  Sciatic  – 
Femoral Nerve Block out – Patient knee arthroscopy”, EUR. J 
Anaesthesiol; Vol 29 (2): 109‐ 114. 
5. Disirre  P  (2003),  “Lower  extremity  blocks”Anaesthesia  core 
program. 1‐25. 
6. Hook P, Stevens J, Gawdron C(2003),“Comparing the effects 
of femoral nerver block versus femoral andsciatic nerve block 
on  pain  and  consumption  after  total  knee  arthroplasty”,  J 
Arthroplasty; 18 (5): 583‐ 586. 
7. Huey ping Ng MD (2001), “Intraoperative single – shot 3 in 1 
femoral  nerve  block  with  ropivacaine  0.25%,  ropivacaine 
0.5%  or  bupivacaine  0,25%  provides  comparable  48h 
analgesia  after unilataeral  total  knee  replacement”, Regional 
anesthesia and pain, 48: 1102 – 1108 
8. Jankowski CJ, Herbl JR, Stuart MJ (2003), “A comparision of 
psoap compartment block and spinal and general anesthesia 
for  outpatient  knee  Arthroscopy”,  Anesth  –  Analgesia, 
International Anesthesia Society, Vol 97, pp.1003 – 1009. 
9. Lê Đức Dũng (2002), “Gây tê tủy sống: Những tai biến, biến 
chứng thường gặp và cách xử trí”, Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại 
Học Y Dược Tp. HCM. 
10. Neal  JM,  Bernards  CM,  Hadzic  A,  et  al  (2008),  “Practice 
advisory  on  neurologic  complications  in  regional  ASRA”, 
Anesthesia and Pain, Medicine. Reg Anesth Pain Med pp: 33: 404 ‐ 
415. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 404
11. Nguyễn Quang Huệ  (2008), “Nghiên cứu giảm đau sau mổ 
đùi và khớp gối bằng gây tê thần kinh đùi 3 trong 1 dùng các 
thể tích khác nhau của hỗn hợp bupivacaine với adrenaline”, 
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại Học Y Hà Nội. 
12. Phạm  Thị  Vân  Anh  (2006),  “Nghiên  cứu  phối  hợp 
bupivacaine  với  các  liều  clonidine  khác  nhau  trong  gây  tê 
thần kinh đùi 3 trong 1 và thần kinh hông to để phẫu thuật 
chi dưới”, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú Bệnh viện, Đại Học 
Y Hà Nội. 
13. Phạm Tiến Quân, Nguyễn Hữu Tú (2005), “Nghiên cứu phối 
hợp  gây  tê  thần  kinh  đùi  3  trong  1  và  thần  kinh  hông  to 
đường trước có sử dụng máy dò thần kinh trong phẫu thuật 
chi dưới”, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Bệnh viện Đại Học 
Y Hà Nội. 
14. Phạm Văn Công (2005), “Gây tê thần kinh đùi và mác chung 
trong  phẫu  thuật  cấp  cứu  gãy  xương  bánh  chè”,  Luận văn 
Thạc sỹ, Trường Đại Học Y Dược Tp. HCM. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014