Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 256
HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU  
TRÊN BỆNH NHÂN ĐA U TỦY 
Huỳnh Văn Mẫn*, Nguyễn Tấn Bỉnh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hiện nay, điều trị đa u tủy đã đạt được những bước tiến rất dài giúp cải thiện thời gian sống 
và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.  
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả bước đầu của phương pháp tự ghép tế bào gốc máu 
ngoại vi ở bệnh nhân đa u tủy tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM. 
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả các trường hợp đa u tủy tự ghép tế 
bào gốc tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học từ tháng 1/2012 đến tháng 8/2013. 
Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành tự ghép 20 bệnh nhân đa u tủy (nam: nữ là 1,5:1) với phác đồ điều kiện 
hóa Melphalan 200 mg/m2. Các bệnh nhân này đều được điều trị tấn công với Bortezomib+Dexamethasone trước 
ghép (ít nhất 4 đợt). Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 49 tuổi. Có 4 bệnh nhân được ghép tươi, không qua xử 
lý (2 trường hợp viêm gan siêu vi B, 2 trường hợp nhiễm giang mai) và 2 bệnh nhân được tự ghép 2 lần. Liều tế 
bào đơn nhân và tế bào CD34+ trung bình lần lượt là 8,3 x 108 tế bào/kg và 7,2 x 106 tế bào/kg. Thời gian mọc 
mảnh ghép trung bình là 10 ngày. Các biến chứng thường gặp gồm : sốt giảm bạch cầu hạt, tiêu chảy, viêm niêm 
mạc. Tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn sau ghép cao hơn so với trước ghép (70% so với 30%). 
Kết luận: Nghiên cứu đã đạt được kết quả khả quan bước đầu và có thể áp dụng kỹ thuật tự ghép này rộng 
rãi trên bệnh nhân đa u tủy. 
Từ khóa: Đa u tủy, tự ghép tế bào gốc. 
ABSTRACT 
EFFICACY OF AUTOLOGOUS PERIPHERAL BLOOD STEM CELL TRANSPLANTATION  
FOR MULTIPLE MYELOMA 
Huynh Van Man, Nguyen Tan Binh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 256 ‐ 262 
Background‐Objective:  Recently,  treatment  of multiple myeloma  (MM)  achieved  strong  development 
which  improved  long‐term  survival  and  quality  of  life.  This  research  aims  to  assess  results  of  autologous 
peripheral blood stem cell transplantation for multiple myeloma at Blood Transfusion and Hematology Hospital 
(BTH). 
Methods: Prospective  case  series  study  from  January, 2012  to August, 2013  in Blood Transfusion  and 
Hematology Hospital, Ho Chi Minh City. 
Results: Tweenty patients with MM who had autologous peripheral blood stem cell transplantation were 
analyzed. High dose Melphalan (200 mg/m2) was used for conditioning. All patients received induction therapy 
with Bortezomib+Dexamethasone before transplant (4 cycles). Patient’s median age was 49 years. Four patients 
underwent  unmanipulated  transplantation  (2  patients  with HBV,  2  patients with  syphilis)  and  2  patients 
underwent  tandem  transplantation. Mean  number  of mononuclear  and CD34+ was  8.3  x  108/kg  and  7.2  x 
* Bộ môn huyết học‐truyền máu, Đại học Y Dược TP. HCM. 
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Huỳnh Văn Mẫn  ĐT: 0975449818  Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Huyết Học 257
106/kg. Median  time  for  engraftment was 10 days. Febrile neutropenia, diarrhea, mucositis were  the  common 
toxicities. The post‐transplant CR response rate was higher than pre‐transplant (70% compared with 30%) 
Conclusion: Our study achieved good initial results and we can used this autologous peripheral stem cell 
transplantation for multiple myeloma patients broadly. 
Keywords: multiple  myeloma  (MM),  autologous  peripheral  blood  stem  cell  transplantation
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đa u tủy xương là một bệnh lý ác tính với 
sự  tăng  mạnh  bất  thường  dòng  tương  bào. 
Liệu pháp hóa trị chuẩn cũ ít hiệu quả đối với 
bệnh  lý này;  ít hơn 10% bệnh nhân  đạt  được 
đáp  ứng  hoàn  toàn  (CR)  và  thời  gian  sống 
trung  bình  chỉ  khoảng  3‐4  năm. Do  đó,  đến 
ngày hôm nay,  đa u  tủy vẫn  là bệnh  lý  chưa 
điều  trị khỏi hoàn  toàn(2,6). Việc  ứng dụng kỹ 
thuật  tự ghép  tế bào gốc đã cải  thiện đáng kể 
tỷ  lệ  đạt  đáp  ứng hoàn  toàn  (35%),  tăng  thời 
gian  sống không bệnh  trung bình  (39  tháng), 
và  thời gian  sống  toàn  thể  (65  tháng). Do  đó, 
tự ghép  được  xem  là phương pháp hiệu  quả 
đối với những bệnh nhân dưới 65 tuổi(1). 
Trong những năm gần đây, đã có một bước 
tiến mới trong điều trị bệnh đa u tủy với sự xuất 
hiện  Bortezomib,  một  thuốc  ức  chế  protease 
mới. Bortezomib đã được ứng dụng  trong điều 
trị bệnh đa u tủy từ nhiều năm nay tại bệnh viện 
Truyền  Máu  Huyết  Học  TP.HCM.  Nhằm  cải 
thiện tỷ lệ đáp ứng cũng như góp phần duy trì 
lui bệnh tốt kéo dài cho bệnh nhân, kỹ thuật tự 
ghép  tế  bào  gốc  đã  được  tiến  hành  trên  bệnh 
nhân đa u tủy từ năm 2011. Với nghiên cứu này, 
chúng tôi muốn đánh giá hiệu quả của phương 
pháp tự ghép này nhằm nâng cao hơn nữa chất 
lượng  điều  trị  đa  u  tủy  tại  bệnh  viện  Truyền 
Máu Huyết Học PT.HCM. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Đánh giá hiệu quả điều  trị bằng  tự ghép  tế 
bào gốc  tạo máu  ở bệnh nhân  đa u  tủy  tại BV 
Truyền  Máu  Huyết  Học  TPHCM  từ  tháng 
1/2012 đến tháng 12/2013. 
Mục tiêu chuyên biệt 
‐ Xác định thời gian mọc mảnh ghép. 
‐ Đánh giá  các biến  chứng xảy  ra  trong và 
sau ghép. 
‐ Đánh giá đáp ứng điều trị sau ghép. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, tiền cứu. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân chẩn đoán đa u tủy tại bệnh viện 
TMHH  thỏa  các  tiêu  chuẩn: Tuổi  <  65,  đạt  lui 
bệnh  ít  nhất một  phần  sau  điều  trị  tấn  công, 
không mắc các bệnh mạn tính nặng. 
Phương pháp tiến hành 
Thực hiện điều trị 
* Huy động,  thu  thập và  lưu  trữ TBGMNV 
của bệnh nhân. 
‐ Huy  động  tế bào gốc bằng G‐CSF  5  –  10 
μg/kg/ngày, N1 – N3. 
‐ Thu thập tế bào gốc bằng máy chiết tách tự 
động thu thập 2 – 3 lần để đạt được: 
•  Số  lượng  tế  bào  đơn  nhân  khoảng  9  x 
108/kg. 
• Số lượng tế bào CD34+ khoảng 7 x 106/kg. 
‐ Bảo quản  tế bào gốc  ở  ‐1960C  trong dung 
dịch DMSO 5 – 10%. 
* Điều kiện hóa diệt tủy trước ghép 
MELPHALAN 200mg/m2 N‐2. 
* Truyền  tế bào gốc: Truyền  tế bào gốc vào 
ngày N0 sau khi rã đông. 
Đánh giá kết quả điều trị 
Thời gian mọc mảnh ghép 
‐ Thời gian hồi phục bạch cầu được  tính  từ 
ngày ghép đến ngày bạch cầu hạt > 0,5 x 109/L, 
tối thiểu 3 ngày liên tục. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 258
‐ Thời gian hồi phục tiểu cầu được tính từ ngày 
ghép  đến ngày  tiểu  cầu  >  20  x  109/L,  tối  thiểu  3 
ngày liên tục và không cần truyền tiểu cầu. 
Đánh giá đáp ứng sau ghép 
Tiêu  chuẩn  IMWG  (International Myeloma 
Working Group): 
Phương pháp thu thập số liệu 
Phương pháp thu thập số liệu 
Hồi  cứu  các  hồ  sơ  bệnh  án  của  các  bệnh 
nhân  đa u  tủy  đã  được  tự ghép  tế bào gốc  tại 
bệnh viện Truyền máu huyết học. Các dữ  liệu 
được thu thập theo phiếu thu thập số liệu. 
Xử lý và phân tích số liệu bằng xác suất thống kê 
‐ Sử dụng phần mềm vi tính SPSS 18 để xử 
lý và phân tích số liệu. 
‐ Kết quả  trình bày dưới dạng bảng  tần số, 
biểu đồ. 
‐ Kết quả xử lý thống kê: trung bình và tỷ lệ %. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Từ tháng 1/ 2012 đến tháng 8/2013, chúng tôi 
đã  ghép  trên  20  bệnh  nhân.  Tỷ  lệ  nam:nữ 
khoảng  1,5:1;  tuổi  trung  bình  khoảng  49  tuổi. 
Hầu hết bệnh nhân thuộc dạng đa u tủy với tăng 
tiết  IgG  (15  bệnh  nhân)  và  thuộc  giai  đoạn  III 
của  bệnh  theo  Durie‐Salmon  (17  bệnh  nhân). 
Lúc chẩn đoán, có 4/20 bệnh nhân biểu hiện suy 
thận  và  5/20  bệnh  nhân  có  bướu  tương  bào 
ngoài  tủy,  được  phát  hiện  qua  sinh  thiết mô. 
Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân đều hồi phục chức 
năng thận về bình thường và biến mất các bướu 
ngoài  tủy này  trước khi  tiến hành  tự ghép. Số 
bệnh nhân mắc các bệnh viêm nhiễm trước ghép 
là  4/20  bệnh  nhân  (trong  đó,  2  bệnh  nhân  bị 
viêm gan siêu vi B, và 2 bệnh nhân mắc giang 
mai).  Đây  là những  đối  tượng  được  chúng  tôi 
ưu tiên ghép tươi, không qua xử lý và bảo quản 
tế bào gốc máu ngoại vi. Đa  số  các bệnh nhân 
được  điều  trị  tấn  công  với  ít  nhất  4  đợt 
Bortezomib‐Dexamethasone  trước  ghép.  Số 
bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn  toàn sau điều  trị 
tấn công là 6/20 bệnh nhân (chiếm 30%).  
Bảng 1: Đặc điểm chung của các bệnh nhân trong 
nghiên cứu 
 Số bệnh nhân (n = 20) 
Nam : nữ 1,5 : 1 
Tuổi 49 ± 7 tuổi (40 – 62 tuổi) 
Phân loại bệnh 
IgG-kappa: 9 BN (45%) 
IgG-lamda: 7 BN (35%) 
IgA-kappa: 2 BN (10 %) 
không tiết: 2 BN (10%) 
U tương bào ngoài 
tủy 4/20 bệnh nhân (20%) 
Suy thận 5/20 bệnh nhân (25%) 
Giai đoạn theo 
Durie Salmon 
Giai đoạn IIA: 3 BN (15%) 
Giai đoạn IIIA:13 BN (65%) 
Giai đoạn IIIB: 4 BN (20%) 
Phân giai đoạn theo 
ISS 
Giai đoạn I: 6 BN (30%) 
Giai đoạn II: 9 BN (45%) 
Giai đoạn III: 5 BN (25%) 
Bệnh lý nền kèm 
theo trước ghép 
Viêm gan B: 2 BN (10%) 
Giang mai: 2 BN (10%) 
Cao huyết áp: 2 BN (10%) 
Bướu giáp: 1 BN (5%) 
Lao phổi cũ: 1 BN (5%) 
Bất thường nhiễm 
sắc thể lúc chẩn 
đoán 
Không bất thường: 8 BN (40%) 
Đa bội: 6 BN (30%) 
Del(13q): 2 BN (10%) 
Bất thường NST 14: 3 BN (15%) 
t(11;14)(q13;32): 1 BN (5%) 
Thời gian từ chẩn 
đoán đến lúc ghép 5,6 ± 1,4 tháng (4 – 9 tháng) 
Đặc điểm quá trình tự ghép: 
Bảng 2: Đặc điểm quá trình tự ghép 
Số đợt tự ghép 22 đợt 
Tự ghép 2 lần 2/20 BN (10%) 
Ghép tươi 4/20 BN (20%) 
Liều tế bào đơn nhân 8,3 ± 3,8x10
8 /kg 
(3 – 19,3 x 108 /kg) 
Liều tế bào CD34+ 7,2 ± 2,5 x 10
6 /kg 
(5,1 – 14 x 106 /kg) 
Mọc mảnh ghép : 
- bạch cầu hạt ≥ 0,5 x 109/L
- tiểu cầu ≥ 20 x 109/L 
10,1 ± 0,9 ngày 
(8 – 12 ngày) 
10,2 ± 1,2 ngày 
(8 – 13 ngày) 
Số đơn vị hồng cầu lắng 
được truyền 
1,2 ± 1,1 đơn vị 
(0 – 3 đơn vị) 
Số tiểu cầu được truyền 7 ± 5 đơn vị (0 – 18 đơn vị) 
Số ngày sử dụng G-CSF 7,2 ± 1,2 ngày (6 – 10 ngày) 
Số ngày nằm viện 28,64± 7ngày (21 – 46 ngày) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Huyết Học 259
Với 20 bệnh nhân, chúng tôi đã thực hiện 22 
đợt  tự ghép. Trong  đó, 2 bệnh nhân  được  tiến 
hành  tự  ghép  2  lần.  Liều  tế  bào  đơn  nhân  và 
CD34+  trung bình  trong nghiên cứu của chúng 
tôi  lần  lượt  là 8,3 x 108  tế bào/L và 7,2 x 106  tế 
bào/kg  Tất  cả  các  bệnh  nhân  đều mọc mảnh 
ghép.  Thời  gian  hồi  phục  bạch  cầu  hạt  trung 
bình  (Số  lượng  bạch  cầu  hạt  trung  tính  trên 
0,5x109/L  trong  3 ngày  liên  tiếp)  là  10 ngày và 
thời gian hồi phục tiểu cầu trung bình (số lượng 
tiểu cầu trên 50 x109/L trong 3 ngày liên tiếp) là 
10 ngày. 
Tác dụng phụ xuất hiện trong quá trình ghép 
Sốt giảm bạch cầu hạt, viêm niêm mạc độ II 
– III,  tiêu chảy độ  II, và buồn nôn, nôn độ  II  là 
các biến chứng thường xảy ra trong quá trình tự 
ghép  (biểu  đồ 1). Tất  cả bệnh nhân  đều  có  sốt 
trong giai đoạn giảm bạch cầu hạt. Số ngày sốt 
trung  bình  là  4,3  ngày  (1  –  12  ngày).  Số  ngày 
trung bình sử dụng kháng sinh  tĩnh mạch phổ 
rộng  là  12,4  ngày  (7‐31  ngày).  Có  11/20  bệnh 
nhân sử dụng kháng nấm tĩnh mạch. Thời gian 
trung bình sử dụng kháng nấm tĩnh mạch là 6,9 
ngày  (0 – 28 ngày). Một  trường hợp sốc nhiễm 
trùng do tác nhân Enterobacter spp. xảy ra trong 
quá  trình  ghép. Không  có  bệnh  nhân  tử  vong 
trong quá trình ghép. 
Biểu đồ 1 : Phân bố các độc tính liên quan đến ghép trong nghiên cứu 
Đáp ứng với điều trị sau ghép 
Biểu đồ 2: Đáp ứng với điều trị trước và sau ghép 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 260
Theo tiêu chuẩn của IMWG, tỷ lệ đáp ứng 
toàn bộ  trong nghiên cứu của chúng  tôi gồm: 
70%  đạt  đáp  ứng  hoàn  toàn  (CR,  complete 
response) và 30% đạt đáp ứng một phần rất tốt 
(VGPR,  very  good  partial  response).  So  sánh 
với giai  đoạn  sau  điều  trị  tấn  công,  tỷ  lệ đáp 
ứng  hoàn  toàn  sau  ghép  cải  thiện  đáng  kể 
(70% so với 30%) (Biểu đồ 2). 
BÀN LUẬN 
Đến  thời  điểm hiện  tại,  tự ghép  tế bào gốc 
vẫn  là một  phương  pháp  điều  trị  chuẩn dành 
cho những bệnh nhân đa u tủy trẻ hơn 65 tuổi (4). 
Điều này tạo cơ hội cho bệnh nhân tiếp xúc với 
hóa trị liệu liều cao nhằm tăng khả năng đạt đáp 
ứng hoàn toàn, cũng như cải  thiện mức độ sâu 
của đáp ứng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh 
những bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn 
có thể kéo dài thời gian sống toàn bộ, cũng như 
nâng  cao  chất  lượng  cuộc  sống(10).  Đa  số  bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc giai 
đoạn  III  theo  Durie‐Salmon,  biểu  hiện  tổn 
thương  nhiều  cơ  quan  của  bệnh. Do  đó,  gánh 
nặng tế bào ác tính cũng tăng hơn. Theo tác giả 
Kumar,  những  bệnh  nhân  thuộc  giai  đoạn  III 
đặc biệt là IIIB có khả năng đáp ứng điều trị kém 
hơn  cũng  như  thời  gian  sống  toàn  bộ  ngắn 
hơn(8). Tự ghép hai lần (ghép tandem) là phương 
pháp  tối  ưu  nhất  dành  cho  những  bệnh  nhân 
nguy  cơ  cao  này(3,7).  Trong  nghiên  cứu  này, 
chúng tôi có 2 bệnh nhân được tự ghép hai lần, 
và đều đạt được đáp ứng hoàn toàn so với đáp 
ứng một phần sau điều trị tấn công.  
Phác  đồ  điều  trị  tấn  công  cũng  như  thời 
gian  từ  lúc  chẩn  đoán  đến  lúc  tiến  hành  tự 
ghép  cũng  là  một  yếu  tố  quan  trọng  ảnh 
hưởng  đến  đáp  ứng  sau  ghép. Mục  tiêu  của 
điều trị tấn công nhằm giảm khối lượng tế bào 
ung  thư  đến mức  thấp nhất  có  thể và không 
ảnh hưởng đến chất lượng tế bào gốc thu thập 
được sau đó. Các bệnh nhân trong nghiên cứu 
của  chúng  tôi  đều  được hóa  trị  liệu  ít nhất  4 
đợt Bortezomib + Dexamethasone. So với phác 
đồ gồm các thuốc alkyl hóa, thì Bortezomib kết 
hợp Dexamethasone có  thể cải  thiện  đáp  ứng 
trước ghép và  sau ghép một  cách  đáng kể  (8). 
Thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán đến lúc 
ghép  trong nghiên  cứu này  là 5,2  tháng. Mặc 
dù, việc  tự ghép  sớm  (<12  tháng) và  trì hoãn 
(>12  tháng) vẫn còn nhiều  tranh cãi(8,9), nhưng 
nhiều nhà nghiên cứu đề nghị nên tiến hành tự 
ghép sớm khi tổng trạng và mức đáp ứng với 
bệnh còn duy trì ổn định. Chính những yếu tố 
này  cũng  đã góp phần  cho kết quả khả quan 
bước đầu trong nghiên cứu. 
Có 4 trường hợp ghép tươi không qua xử lý 
và bảo quản tế bào gốc máu ngoại vi: 2 trường 
hợp viêm gan siêu vi B, và 2 trường hợp giang 
mai muộn, không  triệu chứng. Các bệnh nhân 
này  đều  được  phát  hiện  qua  tầm  soát  trước 
ghép bằng kỹ  thuật huyết  thanh học, và  được 
khẳng định lại bằng những xét nghiệm chuyên 
biệt hơn. Việc tiến hành ghép với nguồn tế bào 
gốc bị nhiễm ít được báo cáo trên y văn thế giới. 
Tuy  nhiên,  nhằm  đảm  bảo  chất  lượng  và  số 
lượng tế bào gốc khi truyền lại vào cơ thể bệnh 
nhân,  thì  phương  pháp  ghép  tươi  tương  đối 
phù hợp.Điều  đáng quan  tâm  đó  là khả năng 
bùng phát trở lại của tác nhân gây bệnh khi cơ 
thể bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng nề do 
hóa  trị  liệu  gây  nên.  Thế  nhưng,  không  có 
trường hợp nào xảy ra hiện  tượng này. Vốn  là 
vùng dịch  tể  của  viêm  gan  siêu  vi B, phương 
pháp ghép  tươi  có  thể mở  ra một hướng mới 
trong điều trị đa u tủy ở Việt Nam.  
Với liều tế bào đơn nhân trung bình và liều 
tế bào CD34+ phù hợp,  tất cả bệnh nhân  trong 
nghiên cứu của chúng  tôi đều mọc mảnh ghép 
tốt.  Thời  gian  mọc  mảnh  ghép  trung  bình 
khoảng 10 ngày đối với cả bạch cầu hạt và tiểu 
cầu,  tương đồng với nhiều nghiên cứu  trên  thế 
giới(4,5,8). Tương  tự nhiều báo cáo, số  lượng đơn 
vị hồng cầu  lắng và  tiểu cầu cần  truyền  tương 
đối ít trong nghiên cứu này. Trên thực tế, hóa trị 
liệu Melphalan liều cao luôn là một vấn đề nặng 
nề đối với những bệnh nhân  lớn  tuổi. Với  thời 
gian hồi phục huyết học rút ngắn  lại,  thời gian 
giảm  bạch  cầu  hạt  không  kéo  dài,  nhu  cầu 
truyền hồng cầu lắng và tiểu cầu đậm đặc ít làm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Huyết Học 261
cho phương pháp tự ghép có thể được áp dụng 
rộng rãi cho nhóm bệnh nhân đặc biệt này.  
Tác dụng phụ do hóa trị liệu điều kiện hóa là 
một  vấn  đề  quan  trọng  không  kém do  những 
bệnh nhân đa u  tủy  thường  lớn  tuổi, khả năng 
dung nạp các độc tính không cao. Sốt giảm bạch 
cầu hạt, viêm niêm mạc độ II – III, tiêu chảy độ 
II,  và  buồn  nôn,  nôn  độ  II  là  các  biến  chứng 
thường  gặp  nhất  trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi. Điều này tương đồng với nhiều nghiên cứu 
trên thế giới  (8,11). Tuy nhiên các biến chứng này 
chỉ  ở mức  độ  trung  bình  và  cải  thiện  nhanh 
chóng khi bạch cầu hạt hồi phục. Hầu như các 
bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  đều  có  sốt  giảm 
bạch cầu hạt trong quá trình suy tủy trong ghép, 
nhưng do thời gian mọc mảnh ghép ngắn, việc 
khởi động kháng sinh phổ rộng sớm khi có chỉ 
định nên những nhiễm trùng này thường không 
biến chứng nặng nề.  
Đánh giá các đáp ứng sau ghép nhận thấy tỷ 
lệ đáp ứng hoàn  toàn vượt  trội hơn hẳn so với 
trước ghép (70% so với 30%). Mặc dù  tỷ  lệ này 
trong nghiên cứu của chúng tôi có phần khá hơn 
so với các báo cáo trên thế giới (5,8,11), nhưng do số 
mẫu  tương  đối  ít nên chúng  tôi vẫn cần nhiều 
đánh giá về sau để có thể kết luận chính xác vấn 
đề  này.  Với mục  tiêu  bước  đầu  triển  khai  kỹ 
thuật  điều  trị mới,  chúng  tôi  ưu  tiên  lựa  chọn 
những bệnh nhân đạt từ đáp ứng một phần trở 
lên. Có  lẽ điều này cũng góp phần nào vào sự 
khác biệt nói trên. Nhìn ở một góc độ rộng hơn, 
cùng với những ghi nhận  của  các  tác giả khác 
trên  thế  giới,  nghiên  cứu  này  cũng  góp  phần 
khẳng định thêm vai trò của tự ghép trong đa u 
tủy. Việc  tiến hành  tự ghép  trên bệnh nhân đã 
đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị tấn công vẫn 
còn  đang  được  tranh  luận  nhiều  bởi  lẽ  tiêu 
chuẩn đáp ứng hoàn toàn theo IMWG chưa hẳn 
là tuyệt đối. Bằng kỹ thuật tế bào dòng chảy, tác 
giả  Paiva  đã  chứng minh  được  vẫn  còn  hiện 
diện những tế bào ác tính tồn lưu ở những bệnh 
nhân đã đạt đáp ứng hoàn toàn. Điều này cũng 
khẳng  định một  điều:  đa u  tủy  là bệnh không 
thể chữa khỏi. Chính phương pháp tự ghép với 
hóa  trị  liệu cao giúp  tận diệt  tối đa nhất có  thể 
những tế bào ác tính còn sót  lại và  tất nhiên sẽ 
kéo dài  thời gian sống và nâng cao chất  lượng 
cuộc sống của bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Nghiên  cứu  này  bước  đầu  đã  khẳng  định 
tính khả thi của phương pháp tự ghép tế bào gốc 
máu ngoại vi  ở bệnh nhân  đa u  tủy. Kỹ  thuật 
này có thể áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao và 
biến chứng ít. Với những kết quả khả quan đạt 
được,  tự  ghép  tế  bào  gốc  có  thể  mở  ra  một 
hướng điều trị mới tích cực hơn dành cho bệnh 
lý vốn khó chữa này. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn 
cần nhiều nghiên cứu nữa với quy mô rộng hơn 
để có  thể đánh giá được  toàn diện những hiệu 
quả lâu dài trong tương lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Attal  M,  et  al  (1996).  A  prospective,  randomized  trial  of 
autologous bone marrow transplantation and chemotherapy in 
multiple myeloma. Intergroupe Francais du Myelome. N Engl J 
Med, 335(2): p. 91‐97. 
2. Barlogie B, et al (2004). Treatment of multiple myeloma. Blood, 
103(1): p. 20‐32. 
3. Bergantim  R,  Trigo  F,  Guimaraes  JE  (2012).  Impact  of 
tandem autologous stem cell transplantation and response to 
transplant  in  the  outcome  of  multiple  myeloma.  Exp 
Hematol Oncol, 1(1): p. 35. 
4. Child  JA,  et  al  (2003).  High‐dose  chemotherapy  with 
hematopoietic stem‐cell rescue for multiple myeloma. N Engl J 
Med, 348(19): p. 1875‐1883. 
5. Harousseau JL, et al (2006). Bortezomib plus dexamethasone as 
induction  treatment  prior  to  autologous  stem  cell 
transplantation  in  patients  with  newly  diagnosed  multiple 
myeloma:  results  of  an  IFM  phase  II  study. Haematologica, 
91(11): p. 1498‐1505. 
6. Jagannath S, et al (2009). Extended follow‐up of a phase 2 trial of 
bortezomib alone and in combination with dexamethasone for 
the  frontline  treatment  of multiple myeloma.  Br  J Haematol, 
146(6): p. 619‐626. 
7. Kumar  A,  et  al  (2009).  Tandem  versus  single  autologous 
hematopoietic cell transplantation for the treatment of multiple 
myeloma: a systematic review and meta‐analysis. J Natl Cancer 
Inst, 101(2): p. 100‐6. 
8. Kumar L, et al (2013). Autologous stem cell transplantation for 
multiple  myeloma:  identification  of  prognostic  factors.  Clin 
Lymphoma Myeloma Leuk, 13(1): p. 32‐41. 
9. KumarSK,  et  al  (2012)  Early  versus  delayed  autologous 
transplantation  after  immunomodulatory  agents‐based 
induction  therapy  in patients with newly diagnosed multiple 
myeloma. Cancer, 118(6): p. 1585‐1592. 
10. Martinez‐Lopez J, et al (2011) Long‐term prognostic significance 
of response in multiple myeloma after stem cell transplantation. 
Blood, 118(3): p. 529‐534. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 262
11. Palumbo  A,  et  al  (2010).  Melphalan  200  mg/m(2)  versus 
melphalan 100 mg/m(2) in newly diagnosed myeloma patients: 
a  prospective,  multicenter  phase  3  study.  Blood,  115(10):  p. 
1873‐1879. 
Ngày nhận bài báo:       18/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014