Học thuyết tạng tượng - Đoàn Thị Băng Linh

I- ĐẠI CƯƠNG:

“Tạng” là những tổchức, cơ quan ở trong cơthể.

“Tượng” là biểu tượng của hình thái, của tình trạng sinh lý bình thường, của

tình trạng bệnh lý phản ảnh ra bên ngoài.

Như vậy, “Tạng tượng” bao hàm ý nghĩa cả về giải phẫu và sinh lý học. Giải

phẫu Y học cổ truyền đã được đề cập rất sớm (nên thô sơ), những kiến thức về

giải phẫu y học cổtruyền có thể được tìm thấy trong những tài liệu rất cổnhưTố

Vấn, Linh khu … Tuy nhiên, học thuyết Tạng tượng lại không hoàn toàn dựa vào

giải phẫu học. Học thuyết này phản  ảnh chính xác,  đầy  đủ sự vận dụng những

học thuyết triết học  Đông phương như âm dương, ngũ hành, Thiên nhân hợp

nhất vào quá trình phòng và trịbệnh.

Nhận thức vềhọc thuyết Tạng tượng gồm những phần chủyếu sau:

1- Mỗi một Tạng, một Phủ, một Phủkỳhằng không phải chỉlà cơquan giải phẫu

học mà còn chủyếu bao gồm những chức năng sinh lý của Tạng (hoặc Phủ

đó) và những mối quan hệ giữa Tạng (hoặc Phủ)  đó với Tạng (hoặc Phủ)

khác.

2- Học thuyết Tạng tượng phản  ảnh sựthống nhất trong nội bộcơthể, thống

nhất giữa cơ thể và môi trường bên ngoài.

3- Sự liên hệgiữa những phần cơthểkhác nhau trong cùng một Tạng (hoặc

Phủ), giữa những Tạng (hoặc Phủ) với nhau, giữa bên trong cơthểvà bên

ngoài cơthể(ngũquan, cửu khiếu …), giữa cơthểvà môi trường bên ngoài

được hệthống kinh lạc của y học cổtruyền minh họa rõ thêm.

Tạng tượng bao gồm: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm bào,  Đởm, Vị,  Đại

trường, Tiểu trường, Bàng quang, Tam tiêu, Não, Tủy, Cốt, Mạch, Tửcung, Khí

huyết, Dinh, Vệ, Tinh, Khí, Thần, Tân dịch cho đến da, lông, gân, thịt, móng, tóc,

tai, mắt, miệng, mũi, lưỡi, tiền âm, hậu âm.

Những tổchức cơquan này, theo tính chất và công năng của chúng đểphân

loại, quy nạp và chia thành: ngũtạng, lục phủ, phủkỳhằng, ngũquan, cửu khiếu

và tinh, khí, thần …

II- HỆ THỐNG TẠNG:

Ngũ tạng bao gồm Tâm (Tâm bào), Can, Tỳ, Phế, Thận. Chúng cùng giống

nhau  ở chỗ tàng chứa tinh khí, mà tinh khí là cơ sở của hoạt  động sinh mệnh,

chỉ nên cất giữlại, không nên làm tản ra.

pdf23 trang | Chia sẻ: hungpv | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Học thuyết tạng tượng - Đoàn Thị Băng Linh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 1 HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG I- ĐẠI CƯƠNG: “Tạng” là những tổ chức, cơ quan ở trong cơ thể. “Tượng” là biểu tượng của hình thái, của tình trạng sinh lý bình thường, của tình trạng bệnh lý phản ảnh ra bên ngoài. Như vậy, “Tạng tượng” bao hàm ý nghĩa cả về giải phẫu và sinh lý học. Giải phẫu Y học cổ truyền đã được đề cập rất sớm (nên thô sơ), những kiến thức về giải phẫu y học cổ truyền có thể được tìm thấy trong những tài liệu rất cổ như Tố Vấn, Linh khu … Tuy nhiên, học thuyết Tạng tượng lại không hoàn toàn dựa vào giải phẫu học. Học thuyết này phản ảnh chính xác, đầy đủ sự vận dụng những học thuyết triết học Đông phương như âm dương, ngũ hành, Thiên nhân hợp nhất vào quá trình phòng và trị bệnh. Nhận thức về học thuyết Tạng tượng gồm những phần chủ yếu sau: 1- Mỗi một Tạng, một Phủ, một Phủ kỳ hằng không phải chỉ là cơ quan giải phẫu học mà còn chủ yếu bao gồm những chức năng sinh lý của Tạng (hoặc Phủ đó) và những mối quan hệ giữa Tạng (hoặc Phủ) đó với Tạng (hoặc Phủ) khác. 2- Học thuyết Tạng tượng phản ảnh sự thống nhất trong nội bộ cơ thể, thống nhất giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. 3- Sự liên hệ giữa những phần cơ thể khác nhau trong cùng một Tạng (hoặc Phủ), giữa những Tạng (hoặc Phủ) với nhau, giữa bên trong cơ thể và bên ngoài cơ thể (ngũ quan, cửu khiếu …), giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được hệ thống kinh lạc của y học cổ truyền minh họa rõ thêm. Tạng tượng bao gồm: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm bào, Đởm, Vị, Đại trường, Tiểu trường, Bàng quang, Tam tiêu, Não, Tủy, Cốt, Mạch, Tử cung, Khí huyết, Dinh, Vệ, Tinh, Khí, Thần, Tân dịch cho đến da, lông, gân, thịt, móng, tóc, tai, mắt, miệng, mũi, lưỡi, tiền âm, hậu âm. Những tổ chức cơ quan này, theo tính chất và công năng của chúng để phân loại, quy nạp và chia thành: ngũ tạng, lục phủ, phủ kỳ hằng, ngũ quan, cửu khiếu và tinh, khí, thần … II- HỆ THỐNG TẠNG: Ngũ tạng bao gồm Tâm (Tâm bào), Can, Tỳ, Phế, Thận. Chúng cùng giống nhau ở chỗ tàng chứa tinh khí, mà tinh khí là cơ sở của hoạt động sinh mệnh, chỉ nên cất giữ lại, không nên làm tản ra. A- CHỨC NĂNG SINH LÝ TẠNG PHẾ 1- Dựa trên cơ sở Hậu thiên bát quái: Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 2 Theo YHCT, tạng Phế ứng với quẻ ĐOÀI. Quẻ Đoài được giải thích như sau: a- Quẻ Đoài tượng trưng cho ao, hồ nước: - Tính chất của ao hồ tuy phẳng lặng nhưng cũng rất dễ dao động khi có ngọn gió thổi qua. Do vậy, tính chất của Phế cũng dễ bị tác động bởi các nhân tố bên ngoài, nên người xưa cho rằng Phế là một tạng rất non nớt “Phế vi kiều tạng”, rất dễ cảm nhiễm ngoại tà. - Tính chất của ao hồ là đem lại sự tươi mát để điều hòa sự hanh khô và đem lại sự ấm áp để đối phó với cái lạnh lẽo của khí hậu. Do đó chức năng của tạng Phế là điều hòa cho bên trong nhân thể. Sách Tố Vấn, chương Linh lan bí điển ghi: “Phế giả tướng phó chi quan, trị tiết xuất yên”. Ý nói: Phế như là một người phụ tá cho Vua làm công việc điều tiết. b- Quẻ Đoài thuộc chính Thu: Vì quẻ Đoài thuộc về chính Thu, cũng là mùa khô ráo. Do đó, vào mùa này, các bệnh tật của tạng Phế đều có thể xảy ra hay biến đổi rõ rệt. c- Quẻ Đoài tượng trưng cho hồ nước: Nước hồ là dự trữ của Đất để đối phó với khô hạn của thời tiết. Có nghĩa là ao hồ luôn luôn tạo được sự ẩm thấp cho đất thì mới đối phó được với sự khô hạn của thời tiết. Ở đây, ý nói đến mối liên hệ giữa giữa Phế (quẻ Đoài tượng trưng cho ao hồ) và Tỳ (quẻ Khôn tượng cho đất). 2- Dựa trên cơ sở của Nội kinh: - Thiên Âm dương ứng tượng đại luận viết: “Kỳ tại thiên vi táo, tại địa vi kim, tại vi thể vi bì mao, tại tạng vi Phế, tại ắc vi thanh, tại thanh vi khốc, tại biến động vi khái, tại khiếu vi ti, tại vị vi tân, tại chí vi ưu”. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 3 Phế thuộc tính táo kim, có liên quan hoặc biểu thị cụ thể bằng những đặc điểm bên ngoài như mũi, bì mao, tiếng khóc, tiếng ho, vị cay, sự buồn rầu. - Thiên Ngũ tạng sinh thành thiên viết: “Chư khí giả giai thuộc vu Phế”. Ý nói: mọi thứ khí trong người đều do Phế chủ quản, trong đó cần chú ý đến chính khí (chân khí), mà thiên Thích tiết chân tà - sách Linh khu có nói: “… Ấy là khí bẩm thụ từ trời, hợp với cốc khí để làm cho thân thể được đầy đủ”. Nói tóm lại, khí ở đây là chỉ nguồn năng lực hoạt động của cơ thể con người. - Thiên Linh lan bí điển luận viết: “Phế giả tướng phó chi quan, trị tiết xuất yên”. Ý nói: Phế như một người tướng phò giúp Vua để điều hòa các tạng phủ khác. - Thiên Kinh mạch biệt luận - sách Tố Vấn viết: “Mạch khí vu kinh, kinh khí quy vu Phế, Phế triều bách mạch”. Ý nói: Phế là nơi hội tụ của khí, đồng thời còn là nơi hội tụ của Huyết mạch. - Thiên Cửu chân luận - sách Linh khu viết: “Phế giả ngũ tạng lục phủ chi cái giả” và Nạn kinh tập chú / Ngu thứ: “Phế vi hoa cái, vi diệc cư cách”. Ý nói: Phế giống như cái ô, ở cách biệt với các tạng khác, lại là cái lộng bao trùm lên các tạng phủ. - Thiên Ngũ khí thiên / Tố Vấn nói: “Ngũ tạng sở tàng … Phế tàng hồn”. - Loại kinh tạng / Tạng tượng loại. Quyển 3: “Hồn chi vi dụng, năng động tác, thông dương do chi nghi giác giả”. Ý nói: Phế tàng hồn, mà tính của hồn là năng động, mọi cảm giác đau hay ngứa cũng đều tri giác được. - Kim quỹ chân ngôn luận / Tố Vấn viết: “Khai khiếu ở tỵ, tàng tinh ở Phế”. - Thiên Mạch độ / Linh khu: “Phế khí thông vu tỵ, Phế hòa tắc tỵ năng tri hương xứ hỷ”. Ý nói: tinh thần và khí của Phế mà đầy đủ thì mũi sẽ nhận biết được mùi thơm thối. - Lục tiết tạng tượng luận / Tố Vấn: “Phế giả … kỳ ba tại mao”. Ý nói: sự tươi tốt của Phế sẽ biểu hiện ra ở lông. - Tuyên minh ngũ khí thiên / Tố Vấn: “Ngũ tạng sở ố, Phế ố hàn”. - Ngoài ra, người xưa còn cho rằng: Phế có chức năng thông điều thủy đạo, mà Phế là thượng nguồn. “Phế chủ thông điều thủy đạo. Phế vi thủy chi thượng nguyên” và tính của Phế là làm cho khí trở nên sạch, làm cho khí giáng xuống “Phế khí túc giáng”. Tóm lại, người thầy thuốc YHCT quan niệm về tạng Phế như sau: Đây là cái tạng ở bên trên các tạng phủ khác, che chở cho các tạng phủ đó, đồng thời còn điều hòa chức năng của chúng. Tạng Phế cũng là nguồn năng lực của các tạng phủ khác, cũng như cho các cơ quan bên trong cơ thể hoạt động. Ngoài ra, tạng Phế còn có chức năng điều hòa nguồn nước trong cơ thể và làm dịu lắng, trong sạch khí trời hô hấp vào. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 4 3- Những chức năng sinh lý của tạng Phế: a- Phế chủ khí: Khí, theo YHCT, có 2 nguồn: một từ tinh khí trong đồ ăn uống, hai là từ khí trời. - Khí trời, từ phía ngoài đi vào cơ thể qua Phế. - Khí của đồ ăn uống, từ phía trong cơ thể, do Tỳ mạch chuyển dần lên Phế. Hai khí ấy hợp lại, chứa ở lồng ngực, gọi là “Tông khí”. Tông khí là nguồn gốc của khí toàn thân, đi ra họng để hô hấp, dồn vào tông mạch, phân bố khắp châu thân. Do đó, chức năng này của Phế hàm nghĩa Phế chủ quản việc hô hấp và toàn bộ khí khắp trên dưới, trong ngoài cơ thể. Rối loạn chức năng này của Phế, dẫn đến: - Những triệu chứng ở bộ máy hô hấp: ho, khó thở, suyễn, nặng tức ngực. - Những triệu chứng của tình trạng suy nhược: mệt mỏi, thiếu hơi, đoản khí. b- Phế trợ Tâm, chủ việc trị tiết: Trị tiết, theo YHCT, là quản lý rành mạch, không rối loạn, có thứ tự. Những tổ chức tạng phủ trong cơ thể hoạt động theo đúng quy luật, tuy do chức năng “chủ thần minh” của Tâm chỉ đạo, nhưng luôn cần được sự hỗ trợ của Phế. Đây là nhờ tác dụng tướng phó của Phế. Tác dụng tướng phó của Phế biểu hiện về mặt huyết mạch, ở mối quan hệ giữa khí và huyết. (Tâm chủ huyết, Phế chủ khí. Nhờ vào 2 chức năng này mà khí huyết được vận hành toàn thân, vận chuyển chất dinh dưỡng, duy trì hoạt động của các tạng phủ. Sự vận hành của huyết, tuy do Tâm làm chủ, nhưng phải nhờ vào khí của Phế. Khí của toàn thân, tuy do Phế làm chủ, nhưng phải nhờ vào sự vận hành của huyết mới có thể thông đạt khắp châu thân). Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Thiếu máu trong những trường hợp suy nhược. c- Phế chủ túc giáng và thông điều thủy đạo: Nước uống vào Vị. Tinh khí của nước, qua sự chuyển vận của Tỳ đi lên Phế, Phế khí túc giáng thì thủy dịch sẽ theo đường thủy đạo của Tam tiêu đi khắp nơi và xuống được Bàng quang. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Tiểu tiện không thông lợi. - Thủy thũng. d- Phế chủ bì mao: Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 5 Chức năng này của Phế chủ yếu ở 2 mặt sau đây: - “Khí môn” (lỗ chân lông): cửa ra vào của Khí (do Phế làm chủ), giúp cơ thể thích nghi với thay đổi của ngoại giới. - Da lông là phần bên ngoài cùng của cơ thể, nơi tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài, giúp Phế thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể (Phế vệ). Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Dễ bị cảm, sốt, sợ gió, sợ lạnh. - Ra hoặc không ra mồ hôi. - Da lông khô, kém tươi nhuận. e- Phế khai khiếu ra mũi: Rối loạn chức năng này của Phế, dẫn đến: - Mũi nghẹt, chảy nước mũi. - Giảm hoặc mất khứu giác. f- Mối liên quan giữa chức năng tạng Phế và trạng thái tinh thần: Sự suy yếu chức năng của Phế biểu hiện ở tình chí hay buồn khóc. B- CHỨC NĂNG SINH LÝ TẠNG TÂM 1- Dựa trên cơ sở Kinh dịch: Theo Kinh dịch, tạng Tâm ứng với quẻ LY của Hậu thiên bát quái. Quẻ LY ở phương Nam, đối xứng với quẻ LY là quẻ Khảm ở phương Bắc (tạng Thận ứng với quẻ Khảm). Quẻ LY được viết bởi 2 vạch liền (dương) và chính giữa 1 vạch đứt (âm), giống như cái bếp có miệng lò, gọi là Ly trung hư, cái đức của nó là sáng, là văn minh. - Quẻ LY thuộc Hỏa, chỉ mùa Hạ, quẻ Khảm thuộc Thủy. Thủy và Hỏa là 2 dạng vật chất căn bản đầu tiên tạo nên vũ trụ, cũng như sự sống của con người. - Biểu tượng của LY là mặt trời, ý là lửa, là nóng, là sáng. - Tâm tượng LY vì cùng thuộc Hỏa, mang thuộc tính của Hỏa là nóng, là sáng. Tâm là nơi xuất phát của thần minh, sự sáng suốt minh mẫn của mỗi con người. 2- Chức năng sinh lý tạng Tâm: Tâm thuộc Thiếu âm, thuộc hành Hỏa. Tâm đứng đầu 12 khí quan, nên gọi là “Thiếu âm quân chủ”. a- Tâm là Quân hỏa: Thiên Tà khách, sách Linh khu viết: “Tâm là vị đại chủ của lục phủ ngũ tạng, là chỗ cư trú của thần minh”. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 6 Thiên Linh lan bí điểm luận, sách Tố Vấn nói: “Chủ sáng suốt thì dưới yên lành, chủ không sáng suốt thì 12 khí quan suy khốn”. Tâm chủ đạo hoạt động sinh mệnh của cơ thể, đứng hàng đầu trong hoạt động tạng phủ. Những tạng phủ khác trong cơ thể đều chịu sự thống lĩnh của Tâm. b- Tâm chủ thần minh: Thiên Lục tiết tạng tượng luận, sách Tố Vấn nói: “Tâm là nguồn gốc của sinh mệnh, là nơi biến hóa của Thần”. Chức năng này của Tâm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động có ý thức như tinh thần, phán đoán, tư duy. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Mất ngủ. - Nói sảng, nói mê. - Cười không nghỉ. c- Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận ra mặt: Thiên Quyết khí luận, sách Linh khu: “Trung tiêu bẩm thụ khí, giữ lại trấp dịch, Tâm khí biến hóa đỏ ra, gọi là Huyết”. Mạch là một trong ngũ thể, mạch bao bọc huyết dịch, chu lưu toàn thân không ngừng. Thiên Lục tiết tạng tượng luận, sách Tố Vấn nói: “Tâm là gốc của sinh mệnh, vinh nhuận ra ở mặt, làm đầy đủ ở huyết mạch”. Rối loạn chức năng này của Tâm, dẫn đến: - Sắc mặt nhợt nhạt. - Sắc mặt tím tái. - Sắc mặt kém tươi nhuận. d- Tâm khai khiếu ra lưỡi: Lưỡi là một trong những vị trí biểu hiện của Tâm, đặc biệt là chót lưỡi. Rối loạn chức năng này của Tâm, dẫn đến: - Lưỡi đỏ. - Lưỡi nhợt. - Lưỡi tím. - Lưỡi lệch vẹo, nói năng ngọng nghịu. e- Tâm có Tâm bào lạc là ngoại vệ của Tâm, bảo vệ Tâm đồng thời chấp hành mệnh lệnh của Tâm. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 7 Thiên Tà khách, sách Linh khu nói: “Tâm là vị đại chủ của ngũ tạng lục phủ, ngoại tà không thể lọt vào được, nếu lọt vào được thì Tâm bị thương, Tâm bị thương thì thần đi mất, cho nên mọi thứ tà khí vào đều ở Tâm bào”. Đó là nói rõ Tâm bào lạc có tác dụng bảo vệ Tâm tạng. Do chức năng này mà rối loạn chức năng Tâm bào, dẫn đến: - Nói sảng, nói mê. - Cười không nghỉ. - Lơ mơ, hôn mê. C- CHỨC NĂNG SINH LÝ TẠNG CAN 1- Dựa trên cơ sở Kinh dịch: Theo Kinh dịch, tạng Can tương ứng với quẻ CHẤN của Hậu thiên bát quái. Quẻ Chấn được giải thích như sau: - Là tiếng sấm sét báo hiệu sự xuất hiện của vạn vật, của sự sống. - Là báo hiệu sự đánh thức, khẳng định mùa đông đi qua, mùa xuân tới với sự sống bắt đầu. Do đó tạng Can chủ về mùa xuân, mùa mà vạn vật trỗi dậy, cây cỏ bắt đầu xanh tươi, chủ về Mộc, chủ về sự sinh. Vì tạng Thận (ứng với quẻ Khảm) thuộc Thủy, là nguồn gốc của sự sống, cho nên Thận thủy hàm dưỡng Can mộc. - Quẻ tượng trưng cho sấm sét, làm chấn động mọi vật, mọi loài. Do đó, Can chủ thịnh nộ. - Mọi vật, mọi loài đều xuất ra ở Chấn. Do đó, Can chủ sự khởi động, chủ sự vận động. Vì thế trong châu thân, phần cân do Can làm chủ. - Sấm sét và gió là hiện tượng tự nhiên của trời đất. Người xưa cho rằng: sấm sét khởi động rồi thì gió sẽ trổi lên. Do đó, Can chủ sinh Phong, gió đến thì xua tan mây mù, băng giá và kết thúc bằng trời quang, mây tạnh, làm cho sự vật hoạt động đạt đến cái tốt đẹp nhất. Ứng với trong cơ thể con người, Can làm cho mọi hoạt động của các tạng, phủ, khí, huyết … đạt đến cái cần đến, cái tốt đẹp của nó. Vì thế, người xưa quy nạp chức năng sơ tiết thuộc vào Can, do Can làm chủ. 2- Chức năng sinh lý tạng Can: a- Can chủ sơ tiết: Can có tác dụng thăng phát (sơ), thấu tiết (tiết), chịu trách nhiệm về sự điều đạt khí cơ của bệnh nhân. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 8 Chức năng sinh lý này của tạng Can có ảnh hưởng rõ rệt đến tình trạng tâm lý của cơ thể, chức năng sơ tiết của Can nếu thông sướng điều đạt thì tâm trạng sảng khoái, người thấy nhẹ thênh. Rối loạn chức năng này của Can, dẫn đến: - Người bệnh cảm thấy bực dọc, bứt rứt. - Dễ nổi giận, dễ cáu gắt. b- Can tàng huyết: Can có công năng tàng trữ huyết dịch và điều tiết huyết lượng. Khi hoạt động, huyết do Can tàng trữ được đem đến cung ứng cho các tổ chức khí quan có nhu cầu; khi ngủ hoặc nghỉ ngơi thì huyết dịch lại trở về trú ở Can tạng. Rối loạn chức năng này của Can, dẫn đến: - Mất ngủ, ngủ không yên. - Xuất huyết. c- Can chủ cân, tinh ba của nó thể hiện ở móng tay, móng chân: Chức năng này của Can chi phối toàn bộ vận động của cơ thể, có liên quan đến vận động của cơ, xương, khớp … Cân lại dựa vào sự dinh dưỡng của huyết do Can mang lại. Chức năng này của Can khi bị rối loạn có thể do Can huyết không đủ, không hàm dưỡng được Cân. Móng tay, móng chân là phần dư của cân, có quan hệ mật thiết với Can khí, Can huyết, Can huyết sung túc thì móng tay, móng chân nhuận, cứng, đỏ, đẹp. Rối loạn chức năng này của Can, dẫn đến: - Đau ở gân. - Co duỗi khó khăn cũng như co cứng, co quắp. - Co giật, động kinh. - Móng tay, móng chân khô, mềm yếu, dễ gãy. d- Can khai khiếu ra mắt: Can bệnh thường ảnh hưởng đến mắt. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Thị lực giảm, thong manh, quáng gà (Can hư). - Đỏ mắt (Can thực). e- Can chủ mưu lự (Can giả, tướng quân chi quan, mưu lự xuất yên). Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 9 Trong cơ thể, Can tạng giống như vị tướng lĩnh thống xuất quân đội, phát huy mưu trí, vạch ra sách lược. Chức năng này của Can có liên quan đến trạng thái tinh thần của cơ thể, Can khí đầy đủ thì suy nghĩ chín chắn, phán đoán sự việc chính xác. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Khó tập trung suy nghĩ. - Phán đoán thiếu chính xác. f- Nộ khí thương Can: Trạng thái giận dữ thì làm hại đến công năng hoạt động của Can. Ngược lại, Can bị bệnh thì người bệnh hay giận, dễ cáu gắt. g- Vùng cơ thể có liên quan đến tạng Can: Lộ trình kinh Can đi qua những vùng: hông sườn, bộ phận sinh dục, đỉnh đầu. Trong bệnh lý tạng Can thường hay xuất hiện những triệu chứng đau vùng hông sườn, đau đầu vùng đỉnh, bệnh lý ở bộ sinh dục như đau bụng kinh, bế kinh … D- CHỨC NĂNG TẠNG TỲ 1- Dựa trên cơ sở Hậu thiên bát quái: Y học cổ truyền Đông phương cho rằng: Tạng Tỳ ứng với quẻ KHÔN. Quẻ Khôn được giải thích như sau: Quẻ Khôn là đất, vạn vật đều được đất nuôi dưỡng. Do đó tạng Tỳ cũng có chức năng nuôi dưỡng các tạng phủ, khí quan khác trong cơ thể. 2- Dựa trên cơ sở Nội kinh: - Thiên Âm dương ứng tượng đại luận viết: “Kỳ tại thiên vi thấp, tại địa vi thổ, tại thể vi nhục, tại tạng vi Tỳ, tại sắc vi hoàng, tại thanh vi ca, tại biến động vi uế, tại khiếu vi khẩu, tại vị vi cam, tại chí vi tư”. Ý sắp xếp tạng Tỳ nằm trong thuộc tính Thấp thổ và có những biểu hiện ra ngoài như bắp thịt, màu vàng, vị ngọt, sự tư lự hoặc khi bất thường thì biểu hiện bằng sự nôn ói hay ca hát. - Thiên Linh Lan bí điển luận: “Tỳ vị giã, thương lẫm chi quan, ngũ vị xuất yên”. Ý sắp xếp Tỳ Vị như một ông quan trông coi quản lý lương thực, tất cả vị khí tinh ba của ngũ tạng đều từ đó mà có. - Về mối quan hệ giữa Tỳ Vị, thiên Quyết luận - Tố Vấn nói: “Tỳ chủ vi Vị, hành kỳ tân dịch”, và được Trình Hạnh Hiên giải thích là đồ ăn uống vào Vị, nhờ Tỳ khí hấp dẫn giúp sức cho Vị làm việc, tinh hoa ở lại, cặn bã ra ngoài. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 10 - Bản Thần thiên, Linh khu viết: “Tỳ tàng doanh, doanh giả thủy cốc chi tinh khí giã”. Ý nói Tỳ tàng chứa doanh, mà doanh là tinh khí của thủy cốc hóa thành. Dựa theo đó, Tứ thập nhị nạn cũng nói: “Tỳ chủ của huyết”. Ý nói Tỳ bao bọc phần huyết dịch. - Thiên Âm dương ứng tượng đại luận, Tố Vấn: “Tỳ chủ cơ nhục, tứ chi”. - Thiên Ngũ thắng sinh thành và Lục tiết tạng tượng luận, sách Tố Vấn viết rằng: “Tỳ chi hợp nhục giã, kỳ vinh thần giã. Tỳ vị kỳ ba tại thần tứ bạch”. Là ý nói: Tỳ Vị cùng với cơ nhục biểu lộ sự vinh nhuận tốt đẹp ra đôi môi. - Tuyên minh ngũ khí thiên - Tố Vấn: “Ngũ tạng sở tàng, Tỳ tàng ý, Tỳ khai khiếu ở miệng. Tỳ khí thông ra miệng, Tỳ hòa ắt miệng sẽ nếm biết được ngũ vị”. - Kim quỹ chân ngôn luận, Tố Vấn và Mạch độ thiên, Linh khu cũng nói như vậy. - Tuyên minh ngũ khí, sách Tố Vấn viết: “Ngũ tạng sở ố. Tỳ ố thấp”. Tóm lại: Qua các đoạn kinh văn nói trên, cũng như dựa vào cơ sở Hậu thiên bát quái, ta có một khái niệm về Tỳ Vị như sau: - Tỳ Vị có chức năng nuôi dưỡng làm trưởng thành các tạng phủ và cơ thể, do đó mà Tỳ được xem như là Hậu thiên khi so sánh với Thận là Tiên thiên (có chức năng sinh ra các tạng phủ và cơ thể). - Trong đó, Vị với hình dáng uốn khúc, co duỗi, dài 2 xích 6 thốn, to 1 xích 5 thốn, có công năng là thu nạp đồ ăn thức uống và tiêu hóa chúng dưới sự điều hòa của tạng Tỳ, để rồi phân bố Tinh khí về cho các tạng, mà ở đây sự vận hóa tinh khí của thủy cốc phải theo hướng “Vị chủ giáng, Tỳ chủ thăng”. - Còn riêng chức năng Tỳ, ngoài việc vận hóa thủy cốc, Tỳ còn tàng chứa doanh (tinh khí của ngũ cốc) và bao bọc phần huyết dịch, nên người sau còn suy ra là: Tỳ sinh huyết và thống nhiếp huyết (giữ huyết chạy trong mạch). 3- Chức năng sinh lý tạng Tỳ: a- Tỳ vận hóa thủy thấp - Tỳ chủ vận hóa: Đây là chức năng hấp thu và vận chuyển các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Đồ ăn, thức uống đưa vào cơ thể nhờ chức năng này mới có thể được vận hóa, lưu chuyển khắp châu thân, nuôi dưỡng cơ thể, tránh được tình trạng thủy thấp ngừng đọng. Rối loạn chức năng này của Tỳ, dẫn đến: - Đầy bụng, trướng bụng, chậm tiêu. Tiêu chảy sống phân. - Đàm ẩm. - Phù thũng. Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 11 b- Tỳ sinh huyết: Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Thiếu máu. - Kinh ít, vô kinh (do kinh Tỳ có quan hệ đến mạch Nhâm ở vùng bụng dưới). c- Tỳ thống nhiếp huyết: Tỳ ngoài chức năng sinh huyết, còn có công dụng thống nhiếp huyết (giữ huyết chạy đúng đường, trong mạch). Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Xuất huyết dưới da. - Rong kinh, rong huyết. d- Tỳ chủ cơ nhục, tứ chi: Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Cơ mềm nhũn, teo nhão. - Sa cơ quan: sa dạ dày, sa sinh dục. - Tay chân rũ, bại liệt, liệt nhão. - Cơ nhục kém phát triển. - Lưỡi liệt, mềm nhão. e- Tỳ vinh nhuận ra ở môi: Tỳ có bệnh, xuất hiện triệu chứng: - Môi nhợt nhạt. - Môi miệng vàng úa, kém tươi. f- Vùng cơ thể có liên quan đến tạng Tỳ: Lộ trình kinh Tỳ đi qua những vùng: vùng bụng trên (tiêu hóa), vùng bụng dưới (bộ phận sinh dục - tiết niệu), ở bộ phận sinh dục (kinh ít, vô kinh, rong kinh, huyết trắng, sa sinh dục …), … g- Mối liên quan giữa chức năng tạng Tỳ và trạng thái tinh thần: Sự suy yếu chức năng của Tỳ biểu hiện ở tình chí hay lo nghĩ. E- CHỨC NĂNG SINH LÝ TẠNG THẬN 1- Dựa trên cơ sở Hậu thiên bát quái: Theo Kinh dịch, tạng Thận ứng với quẻ KHẢM của Hậu thiên bát quái. Quẻ Khảm được giải thích như sau: Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 12 - Là nước. Tạng Thận ứng với quẻ Khảm. Do đó, Thận chủ thủy. “Thận vi thủy tạng”. - Là nơi giữ lại. Do đó tạng Thận phải là nơi cất giữ tinh khí hậu thiên và tiên thiên của nhân thể. “Thận là phong tàng chi bản”. (Lục tiết tạng tượng luận / Tố Vấn). - Mọi sự sống đều bắt nguồn từ nước. Do đó tạng Thận là nguồn gốc của sự sống trong cơ thể con người. Con người mới sinh ra đầu tiên là nhờ tinh khí tiên thiên mà sống và phát triển. Do đó, Thận chủ tiên thiên. - Là nước đối với đất (làm cho đất phì nhiêu). Thận chủ tinh khí tiên thiên sẽ giúp cho Tỳ thổ vận hóa thủy cốc thành tinh khí hậu thiên. Cả hai sẽ nuôi dưỡng mọi tạng phủ, khí quan trong nhân thể. - Gồm một vạch  nằm giữa 2 vạch – – là tượng trưng cho Hỏa nằm trong Thủy, là Dương nằm trong Âm. Ứng với tính chất của quẻ mà người ta có quan niệm là Thận hỏa nằm giữa Thận thủy và vì quẻ Khảm là nguồn gốc sự sống nên Thận hỏa cũng là lửa của sự sống (Mệnh môn hỏa). 2- Chức năng sinh lý tạng Thận: Thận bao gồm Thận âm, Thận dương. Thận âm còn gọi là Chân âm, Nguyên âm, nguyên Thủy. Thận dương còn gọi là Thận khí, Thận hỏa, Chân dương, Nguyên dương, Chân hỏa, Mệnh môn hỏa. a- Thận là gốc tiên thiên, nguồn gốc của sự sống (Tiên thiên chi bản, sinh khí chi nguyên). Ý nói: Thận là cái được sinh thành, sẽ phát sinh, phát triển, bao quát, quyết định xu hướng phát triển của con người. Cái lập mệnh, cái sức sống của mỗi cá thể được quyết định bởi nơi Thận. Cái sẽ được di truyền cho thế hệ sau, tạo cơ thể mới nằm ở nơi Thận. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Những bệnh lý có tính di truyền. - Những bệnh bẩm sinh. b- Thận chủ Thủy: Dịch thể trong con người do Thận quyết định. Chất thủy dịch được nhập vào nhờ Vị, chuyển hóa nhờ Tỳ, tàng chứa và phân phối là do Thận. Mọi thứ huyết, tân dịch đều chịu ảnh hưởng của Thận. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 13 - Phù thũng. c- Thận chủ Hỏa: Nguồn suối nhiệt, nguồn năng lượng đảm bảo cho sự sống còn, cho hoạt động là ở nơi Thận hỏa (chân hỏa). Dương khí dồi dào, tinh lực đầy đủ là nhờ chân hỏa sung mãn. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Lạnh trong người, lạnh lưng, lạnh tay chân. - Hay cảm. - Người mệt mỏi, hoạt động không có sức. d- Thận giữ chức năng bế tàng: Thận chủ bế tàng. Tất cả các hiện tượng hư thoát, thải tiết quá mức là do chức năng bế tàng của Thận bị rối loạn. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Khó thở, khí nghịch (Thận không nạp được khí). - Tiểu nhiều, tiêu khát (Thận không giữ được thủy). - Mồ hôi chảy như tắm (Thận không liễm được hãn). e- Thận tàng tinh: Tinh ba của ngũ cốc được Vị thu nhận, Tỳ Phế chuyển hóa, tàng chứa nơi Thận. Tinh ba của mọi tạng phủ được tàng chứa nơi Thận. Thận cũng sử dụng biến hóa tinh ba này thành tinh sinh dục. Hoạt động sinh dục mạnh mẽ hay yếu ớt phụ thuộc vào tinh ấy. Tinh dồi dào chứng tỏ Thận khí mạnh, tinh ít ỏi là Thận kiệt khí suy. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Gầy, sút cân, da xạm. - Ở đàn ông: di mộng tinh, liệt dương. - Ở đàn bà: rối loạn kinh nguyệt, lãnh cảm, vô sinh… f- Thận chủ kỹ xảo, tác cường chi quan: Tất cả sự mạnh mẽ của con người là nhờ ở Thận. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Tay chân run, cứng. - Mất khả năng thực hiện các động tác khéo léo, tinh vi. g- Thận chủ cốt tủy: Học thuyết Tạng tượng BS CKI. Đoàn Thị Băng Linh 14 Thận tàng tinh, tinh có thể sinh ra ở Tủy. Tủy chứa trong các khoang rỗng của xương, có tác dụng nuôi dưỡng xương. Xương cốt vững chãi, tủy dồi dào, răng vững không lung lay, không đau nhức (theo YHCT, răng là phần thừa của cốt) chứng tỏ Thận tốt. Rối loạn chức năng này, dẫn đến: - Đau nhức xương tủy. - Còi xương chậm phát triển. - Răng lung lay. h- Thận khai khiếu ra tai, tinh hoa hiện ra ở tóc: Rối loạn chức năng Thận có ảnh hưởng đến khả năng nghe của tai. Xét tóc khô hay mượt, có thể biết được tình trạng thịnh suy của Thận. Những triệu chứng xuất hiện trong bệnh lý của Thận: - Tai ù, điếc, nghễnh ngãng, sức nghe kém. - Tóc bạc, khô, dễ rụng. i- Thận chủ tiền âm, hậu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfHoc_thuyet_Tang_tuong.pdf
Tài liệu liên quan