Hội chứng Mc Cune Albright được mô tả lần đầu tiên năm 1937 tại Hội 
nghị Nhi khoa thế giới. Đó là sự kết hợp của 3 triệu chứng, bao gồm đám da màu 
cà phê sữa, loạn sản xơ đa xương và dậy thì sớm. Đây là một bệnh hiếm gặp, do 
vậy tần suất chính xác còn chưa rõ. Bệnh gặp ở cả hai giới nhưng thường hay gặp 
ở nữ giới tuổi thiếu nhi và thiếu niên.
Nguyên nhân của bệnh là do một đột biến gen GNAS, cụ thể là đột biến 
protein Gs, có tác dụng điều hòa AMP vòng,làm tăng sản xuất AMP vòng. Từ đó 
kích hoạt các thụ thể kết hợp với protein G tại các cơ quan đích như xương, da, 
các tuyến nội tiết, có tác dụng tăng cường hoạt động chức năng của các tế bào của 
các cơ quan đích đó, gây nên các triệu chứng của bệnh.
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1710 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Hội chứng MC cune albright (mccune-Albright syndrome), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội chứng Mc Cune Albright 
(McCune-Albright Syndrome) 
Hội chứng Mc Cune Albright được mô tả lần đầu tiên năm 1937 tại Hội 
nghị Nhi khoa thế giới. Đó là sự kết hợp của 3 triệu chứng, bao gồm đám da màu 
cà phê sữa, loạn sản xơ đa xương và dậy thì sớm. Đây là một bệnh hiếm gặp, do 
vậy tần suất chính xác còn chưa rõ. Bệnh gặp ở cả hai giới nhưng thường hay gặp 
ở nữ giới tuổi thiếu nhi và thiếu niên. 
Nguyên nhân của bệnh là do một đột biến gen GNAS, cụ thể là đột biến 
protein Gs, có tác dụng điều hòa AMP vòng, làm tăng sản xuất AMP vòng. Từ đó 
kích hoạt các thụ thể kết hợp với protein G tại các cơ quan đích như xương, da, 
các tuyến nội tiết, có tác dụng tăng cường hoạt động chức năng của các tế bào của 
các cơ quan đích đó, gây nên các triệu chứng của bệnh. 
Biểu hiện lâm sàng 
Đầu tiên là sự xuất hiện đám da màu cà phê sữa thường xuất hiện sau khi 
sinh. Các đám da màu cà phê sữa chính là sự thể hiện của tăng sản xuất sắc tố da 
melanin. Đám da màu cà phê sữa thường khu trú ở một bên cơ thể, bờ không đều. 
Như thành lệ, có ít hơn 6 tổn thương, có kích thước thay đổi từ 1 cm đến rất rộng, 
bao phủ cả vùng như thắt lưng, mông, vùng xương cùng cụt. 
Các tổn thương xương thường được phát hiện khi xuất hiện đau xương tại 
chỗ, biến dạng xương hay gãy xương. Các xương hay bị tổn thương nhất là xương 
sườn, xương sọ, mặt, đặc biệt là xương hàm, xương chậu. Các xương khác dễ bị 
tổn thương là hành xương hay thân xương của đầu trên xương đùi hay xương 
chày. Các triệu chứng khác liên quan đến chèn ép thần kinh hay mạch máu của tổn 
thương xương là đau đầu, ù tai, bất thường thần kinh sọ não, giảm thính lực, hẹp 
ống tai ngoài, thậm chí chảy máu sọ não tự phát khi tổn thương xương sọ mặt. 
Loạn sản xương thái dương có thể giảm thính lực và bịt tắc hốc tai ngoài, mất đối 
xứng mặt, lồi mắt. Gãy xương gặp với tỷ lệ cao, ở trên 85% bệnh nhân. Lùn xảy ra 
do cốt hóa sớm đầu xương. 
Dậy thì sớm hiếm khi là triệu chứng đầu tiên của hội chứng Mc Cune 
Albright. Dậy thì sớm thường xảy ra ở nữ giới hơn là ở nam giới. Đó là các biểu 
hiện thấy kinh, phát triển tuyến vú, mọc lông nách hay lông mu. Dậy thì sớm là do 
rối loạn hoạt động của buồng trứng. Siêu âm tiểu khung cho thấy một hay nhiều 
nang buồng trứng, và xét nghiệm sinh học cho thấy các em gái có nồng độ 
estrogen cao trong máu và gonadotropin thấp. 
Ngoài dậy thì sớm, người ta còn phát hiện thấy các rối loạn nội tiết khác 
như cường giáp trạng, đái tháo đường, tăng phosphat niệu. Nhuyễn xương do giảm 
phosphat máu có thể kèm theo loạn sản xơ xương. 
Giai đoạn và vị trí đột biến xác định kiểu bệnh. Đột biến càng sớm thì bệnh 
càng lan tỏa. Bệnh có thể tái phát sau khi mang thai. Biến chứng thần kinh hay ác 
tính hóa rất hãn hữu. Sự ác tính hóa (sacom xương) chỉ gặp trong ít hơn 1%, chỉ 
gặp ở tuổi 30 hay 40, ở những bệnh nhân bị bệnh từ tuổi thiếu niên. Trong 1/3 
trường hợp, ác tính hóa xảy ra ở các tổn thương đã được chiếu xạ từ trước đó. 
Để chẩn đoán xác định bệnh thì các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh và sinh 
hóa rất có tác dụng. Bệnh nhân cần được theo dõi 6 tháng một lần, khám lâm sàng, 
làm các xét nghiệm và Xquang để phát hiện các biến chứng của bệnh như chèn ép 
thần kinh thị giác. Xquang xương đùi cho thấy hình ảnh kính mờ. Xquang sọ có 
thể phát hiện được xơ hóa xương nền sọ hay xương thái dương, gây tổn thương 
xương nhỏ trong tai, có thể làm chít hẹp thần kinh thái dương. CT sọ não có thể 
phát hiện u tuyến yên. 
 Điều trị bằng cách nào? 
Điều trị bảo tồn: Để điều trị các triệu chứng xương, đầu tiên có thể dùng 
thuốc giảm đau và chống viêm không steroid để giảm đau xương. Không nên điều 
trị bằng tia xạ hay quang tuyến X vì không hiệu quả và có nguy cơ gây ung thư 
xương. Phác đồ điều trị hiện tại là dùng pamidronat truyền tĩnh mạch 60 mg/ngày, 
trong 3 ngày liên tục và nhắc lại sau 6 tháng, trong tối thiểu 2 năm. Có thể tái điều 
trị sau 1 năm hay dừng điều trị lại. Pamidronat có thể là một giải pháp điều trị có 
giá trị ở những bệnh nhân loạn sản xơ xương mức độ vừa và nặng. Ngoài ra, bệnh 
nhân cần phải dùng bổ sung vitamin D3 (800UI/ngày) và canxi (500-1.000 
mg/ngày) tùy theo lượng tiếp nhận hằng ngày để tránh cường cận giáp thứ phát. 
Điều trị ngoại khoa phụ thuộc vào vị trí của xương bị tổn thương. Đa số gãy 
xương bệnh lý điều trị bảo tồn có kết quả. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở tổn thương 
xương chi dưới là xương bị gấp khúc và yếu ớt. Khi đó cần phải điều trị ngoại 
khoa để phòng gãy xương và biến dạng xương. Điều trị tổn thương xương ở chi 
dưới bằng phương pháp kết hợp xương chủ yếu được chỉ định ở đối tượng dưới 18 
tuổi. Sau khi đóng sụn tăng trưởng, tổn thương cổ xương đùi sẽ được điều trị thỏa 
đáng hơn bằng nạo vét, ghép xương tự thân và cố định bằng đóng đinh và nẹp. 
Nếu xương đùi vẹo trong quá nhiều thì cần phải cắt gọt xương. Ngoài ra cần điều 
trị dậy thì sớm và các rối loạn nội tiết kèm theo. 
Nguồn:  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 hoi_chung_mc_cune_albright_1228.pdf hoi_chung_mc_cune_albright_1228.pdf