Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  287
HỘI CHỨNG PARRY‐ROMBERG: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP  
Nguyễn Anh Tuấn*, Nguyễn Mạnh Đôn**, Nguyễn Văn Phùng*** 
TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Tác giả trình bày 2 trường hợp Hội chứng Parry‐Romberg đến khám và điều trị tại Khoa Tạo 
hình ‐ Thẩm mỹ bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM. 
Tư  liệu và phương pháp: Trình bày hai ca lâm sàng BN nam 26 tuổi và BN nữ 21 tuổi đến từ hai địa 
phương khác nhau, tiền căn khỏe mạnh, không bệnh lý bẩm sinh, không mắc các bệnh nhiễm khuẩn mạn tính, 
không bị cắt bỏ u bướu hay chiếu tia xạ, tình cờ phát hiện bớt sắc tố một bên mặt ở độ tuổi thiếu niên, cùng với 
teo dần mô da và dưới da. Tình trạng teo các mô dưới da diễn tiến ngày càng trầm trọng trong nhiều năm gây 
biến dạng khuôn mặt. Chẩn đoán dựa vào đặc điểm lâm sàng, thời gian khởi phát và tiến triển, chẩn đoán loại trừ 
các bệnh cảnh tương tự. Việc điều trị bao gồm bù đắp phần khuyết mất mô tùy theo mức độ teo mô, điều trị các 
sang thương ngoài da và điều chỉnh các rối loạn cơ năng nếu có. Cần tư vấn kỹ cho bệnh nhân giúp họ có lại tự 
tin trong cuộc sống.  
Kết quả: BN nam teo lõm nửa mặt trầm trọng nhưng thân nhân và bệnh nhân không đồng ý can thiệp. BN 
nữ đã được can thiệp bằng phương pháp cấy ghép mỡ đem lại kết quả khả quan, bệnh nhân hài lòng và cảm thấy 
tự tin hơn, cần tiếp tục theo dõi diễn tiến và điều trị các sang thương ngoài da cho BN. 
Kết luận: Hội chứng Parry‐Romberg là tình trạng teo nửa mặt bẩm sinh gây mất cân đối khuôn mặt làm 
người bệnh mất tự tin. Điều trị khi bịnh ngưng tiến triển, bao gồm bù đắp phần thiếu hụt mô mềm bằng cách 
chuyển vạt cơ hoặc cấy ghép mỡ tự thân. 
Từ khóa: Hội chứng Parry‐Romberg, teo nửa mặt, cấy ghép mỡ tự thân 
ABSTRACT 
PARRY‐ROMBERG SYNDROM: 2 CASES REPORT 
Nguyen Anh Tuan, Nguyen Manh Don, Nguyen Van Phung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 287 ‐ 291 
Objectives: The authors presented  two cases Parry‐Romberg syndrome was consulted and  treated at  the 
University Medical Center of HoChiMinh city. 
Material and methods: Two clinical cases: a male 26 yrs old and a female 21 yrs old came from different 
province,  health  history  normal,  no  congenital  disease,  not  infectious  diseases,  without  tumor  excision  or 
radiation  treatment.  Discovered  a  side  less  pigment  in  their  teens  at  random,  then  shrinks  the  skin  and 
subcutaneous tissue. Status of subcutaneous atrophy progressive worsening  for years causing  facial deformity. 
Diagnosis  is based on clinical characteristics, onset and progression, different diagnosis of similar  illness. The 
treatment consists of compensate the loss of tissue depending on the degree of tissue atrophy, treat skin lesions 
and adjustment disorders function, if any. Consult carefully to patients to help them with self‐confidence in life. 
Results:  Our  male  patient  with  severe  hemifacial  concave  atrophy  but  he  and  his  relatives  disagree 
intervention. Our female patient who had been autogenous fat transplantation provides satisfactory results, she 
pleased and feel more confident, we will continue to monitor the progress and treatment of skin lesions for her. 
* Khoa – Bộ môn Tạo hình Thẩm mỹ, Đại học Y Dược TP HCM. 
** Khoa Tạo hình Thẩm mỹ, BV ĐHYD TP HCM *** Bộ môn TH‐TM ĐHYD TP HCM  
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Mạnh Đôn  ĐT: 0906630109   Email: 
[email protected]  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 288
Conclusions: Parry‐Romberg syndrome is a condition caused progressive hemifacial atrophy congenital. It 
makes patients lose confidence. Treatment including compensate the soft tissue defect by muscle flap transfer or 
autologous fat grafts. 
Key words: Parry‐Romberg syndrom, hemifacial atrophy, cut of the en coup de sabre, autogenous fat grafts 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng Parry‐Romberg  là  tình  trạng  teo 
nửa mặt tiến triển ảnh hưởng đến da, mô mềm 
dưới da, mô  sụn và  cấu  trúc  xương bên dưới; 
bệnh tương đối hiếm gặp; được Caleb Parry mô 
tả lần đầu tiên năm 1815, sau đó được các tác giả 
khác mô  tả  kỹ hơn như Moritz Romberg năm 
1846, Eulenberg năm 1871 (5,6,8). Bệnh thường xảy 
ra ở nữ hơn  là nam, hầu hết các  trường hợp  là 
một bên mặt. Bệnh khởi đầu  ở  tuổi niên  thiếu, 
tiến triển liên tục trong khoảng 5 năm sau đó đột 
nhiên dừng diễn tiến. Bệnh không gây tử vong 
nhưng  làm biến dạng khuôn mặt của người trẻ 
nên  ảnh  hưởng  sự  tự  tin,  khả  năng  hòa  nhập 
cộng đồng của họ. 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU(1,2,1,3,1,8) 
‐  Parry‐Romberg  là một  rối  loạn mắc  phải 
chủ yếu gây  tình  trạng  teo nửa mặt  tiến  triển, 
làm biến chất mỡ, da, cơ và xương. Lưỡi và các 
chi cũng có thể bị ảnh hưởng. 
‐ Nó  trùng  lặp  trên  lâm sàng với  tình  trạng 
xơ  cứng  bì  “en  coup  de  sabre”  là một  vệt  xơ 
cứng bì dọc hoặc chéo ở vùng trán. 
‐ Các vấn đề  thần kinh đi kèm bao gồm có 
động  kinh  (đôi  khi  kèm  bất  thường  não  trên 
MRI), co thắt nửa cơ nhai và nhức nửa đầu. 
‐  Sinh  lý  bệnh  học  thì  chưa  chắc  chắn 
nhưng  bịnh  dường  như  có một  cơ  chế miễn 
dịch mắc phải. 
‐ Phẫu thuật tạo hình có thể hữu ích và trong 
trường hợp nặng nên xét đến việc dùng ức chế 
miễn dịch. 
BỆNH ÁN 1  
BN Nguyễn  Đức  C.,  nam,  sinh  năm  1987, 
nhà ở  thị  trấn Ái Nghĩa, Đại Lộc, Quảng Nam; 
vào viện ngày 01/03/2013. 
Lúc 17 tuổi, bệnh nhân có bớt giảm sắc tố má 
phải,  đi  khám  nhiều  nơi  không  rõ  chẩn  đoán, 
được điều  trị bằng  thuốc  thoa không rõ  loại kể 
cả thuốc nam, bớt sắc tố không giảm nhưng thấy 
mô vùng má teo dần, đến năm 22 tuổi, vùng mặt 
bên phải  teo  đét  so với bên  trái. Bệnh nhân  đi 
khám tại Bệnh viện đa khoa huyện và của tỉnh, 
được điều trị bằng thuốc, châm cứu chạy điện  
nhưng không  đem  lại kết quả: bớt giảm  sắc  tố 
lan  rộng  kèm  với  teo mô da  và dưới da  ngày 
càng nặng. 
Tháng  2/2013,  bớt  giảm  sắc  tố  không  thay 
đổi,  tình  trạng  teo  vùng mặt  không  cải  thiện, 
nhãn cầu bên phải thụt vào rõ rệt so với bên trái; 
bệnh nhân  tiếp  tục khám  tại một bệnh viện  tại 
TP Hồ Chí Minh được chẩn đoán ”Teo nửa mặt 
bẩm  sinh”. Khi  đến  khoa  Tạo  hình  Thẩm mỹ 
Bệnh viện Đại học y Dược, bệnh nhân được xác 
định Hội chứng teo nửa mặt tiến triển, khớp cắn 
bình  thường, mắt nhắm kín bình  thường. Bệnh 
nhân  được  gửi  khám  chuyên  khoa  mắt  chẩn 
đoán teo mô dưới da vùng hốc mắt, hội chẩn với 
chuyên khoa nội  thần kinh  chẩn  đoán bệnh  lý 
teo nửa mặt không rõ nguyên nhân. 
Bệnh nhân  được  làm  các xét nghiệm huyết 
đồ, sinh hóa, đường máu, albumin máu, ion đồ, 
ASLO, Rhumatoid Factor, VS, đông máu và tìm 
tế  bào  SLE  (Le‐cell),  tổng  phân  tích  nước  tiểu 
đều  trong giới hạn bình  thường. Xquang ngực 
thẳng, ECG và  siêu  âm  tim bình  thường. Trên 
phim MRI cho  thấy hình ảnh  teo nhóm cơ vận 
nhãn, nhóm  cơ nhai,  tuyến mang  tai, nửa  lưỡi 
bên phải. Dây thị phải bị lệch sang phải. Có bất 
thường  tín  hiệu  nửa  phải  xương  hàm  dưới, 
không  gây  biến  dạng  xương,  không  bắt  thuốc 
sau tiêm. 
Bệnh  nhân  được  hội  chẩn  bệnh  viện  chẩn 
đoán  teo  nửa  mặt  nặng  do  hội  chứng  Parry 
Romberg, hướng xử trí chuyển vạt cơ vùng cạnh 
vai  có  kết  nối  vi  phẫu  để  bù  đắp  khuyết mô 
vùng mặt. Nhưng  sau khi giải  thích và  tư vấn 
kỹ, thân nhân và bệnh nhân không đồng ý phẫu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  289
thuật do kết quả mang lại không đáp ứng được 
mong mỏi của gia đình cũng như nhưng tai biến 
rủi  ro có  thể xảy  ra. Bệnh nhân  được  cho xuất 
viện. 
BỆNH ÁN 2 
BN Nguyễn Thị T.T., nữ, sinh năm 1992, nhà 
ở  huyện  Di  linh,  Lâm  đồng;  vào  viện  ngày 
18/03/2013. 
Lúc 11 tuổi, Bệnh nhân tình cờ phát hiện có 
bớt  sắc  tố  ở  trán  phải  gần  chân  tóc,  bớt  lan 
nhanh xuống góc trong đầu cung mày – góc mắt 
phải, lan lên chân tóc gây rụng tóc. Bớt sắc tố lan 
đến đâu kèm theo teo mô dưới da đến đó: đầu 
tiên mô dưới da vùng bớt ở trán lõm xuống, khi 
bớt lan lên chân tóc làm rụng tóc và teo mỏng da 
đầu, lan qua góc mắt xuống má gây teo mô dưới 
da vùng má và teo nhỏ vành tai trái. Sau khoảng 
5 năm tiển triển liên tục, khuôn mặt bệnh nhân 
biến dạng, giữa mặt có vết sẹo tựa một nhát dao. 
Nửa mặt bên  trái da và mô dưới da  teo mỏng, 
mắt  trái  vẫn  nhìn  rõ,  khớp  cắn  bình  thường. 
Bệnh nhân  được một  đoàn Bác  sĩ  quốc  tế  đến 
Bệnh  viện Răng Hàm Mặt Trung  ương Thành 
phố  Hồ  Chí  Minh  khám  và  chẩn  đoán  Hội 
chứng Parry Romberg. Bệnh nhân được các Bác 
sĩ Việt nam phẫu thuật 2 lần: thu nhỏ bớt sắc tố 
vùng trán và vùng mất tóc, bù đắp phần teo mô 
dưới da vùng mặt bằng phương pháp  cấy mỡ 
nội bì tuy nhiên chỉ sau vài tháng phần mỡ cấy 
xẹp dần và tan đi nhanh chóng, vết sẹo giữa mặt 
vẫn còn rõ. 
Tháng 3‐2013 bệnh nhân đến khoa Tạo hình 
Thẩm mỹ Bệnh viện Đại học y Dược với  lý do 
teo nửa mặt. Khám thấy nửa mặt phải teo nhỏ rõ 
rệt so với bên trái, trục mặt cong lồi về bên trái, 
mất tóc phần đính phải, vết sẹo dọc giữa mặt đi 
từ  trán  phải  xuống  đầu  trong  cung mày  phải, 
khóe  mắt  cạnh  mũi  phải,  khóe  miệng  phải 
xuống  gần  giữa  cằm. Mô dưới da  sụt  lún,  teo 
mỏng  toàn bộ nửa mặt phải  đến  trước  tai,  teo 
mỏng một phần ba dưới tai phải, mỏng mô dưới 
da vùng chũm và dừng lại ở chân tóc sau tai. Bớt 
sắc tố hình vệt dài bên trên rãnh mũi má phải và 
gần như toàn bộ da cổ bên phải. Trục ngang hai 
mắt nghiêng về bên phải, mắt hai bên nhắm kín, 
thị lực hai mắt bình thường. Cánh mũi phải teo 
mỏng,  thu hẹp bớt khẩu kính  lỗ  tiền đình mũi, 
không bị khó  thở. Môi  trắng  trên và dưới phải 
teo mỏng, môi đỏ teo nhỏ còn khoảng 4/5 so với 
bên  trái,  vùng  cằm  phải  gần  đường  giữa mô 
dưới da  teo mỏng  tạo  thành vệt  rõ xuống bên 
dưới  cằm.  Khớp  thái  dương  hàm  hầu  như 
không  bị  ảnh  hưởng,  khớp  cắn  bình  thường. 
Tình trạng biến dạng khuôn mặt làm bệnh nhân 
mặc  cảm,  thiếu  tự  tin. Bệnh nhân mong muốn 
được phục hồi một phần sự cân đối của khuôn 
mặt. 
Bệnh nhân  được  làm  các xét nghiệm huyết 
học,  sinh  hóa máu,  ion  đồ  đều  trong  giới  hạn 
bình  thường,  Xquang  phổi,  điện  tâm  đồ  bình 
thường. CT scan cho thấy có vẹo vách ngăn mũi, 
xương hàm  trên và dưới không cân xứng, nửa 
bên phải lớn hơn nửa bên trái mức độ nhẹ, mô 
mềm nửa phải vùng đầu và mặt mỏng hơn bên 
trái đáng kể. 
Bênh  nhân  được  hội  chẩn  khoa  và  quyết 
định cấy mỡ tự thân vùng mặt, lượng mỡ hút từ 
vùng bụng quanh rốn sau khi  ly  tâm  tách  lắng 
cấy vào các khuyết mô vùng mặt chủ yếu vùng 
má,  trán và  đầu mày  tổng  cộng 22ml,  sau bốn 
tuần tiếp tục được cấy mỡ lần hai khoảng 20ml 
vào các vùng gian mày, cằm, môi trên, cánh mũi. 
Bệnh nhân  được  tiếp  tục  theo dõi  thấy  có hao 
hụt dần lượng mỡ so với lúc cấy ghép, đến nay 
sau  7  tháng  phần mô  được  cấy  ghép mỡ  hầu 
như  đã  ổn  định,  phần  đầu mày  và  vùng  cằm 
chưa đạt được cao độ  tương  tự bên  lành, bệnh 
nhân  hài  lòng  với  kết  quả  này  và  sống  tự  tin 
hơn. 
BÀN LUẬN 
Về  nguyên  nhân  của  hội  chứng  là  chưa 
rõ(1,6,1,3,1,6,8), người  ta không  tìm  thấy bất  cứ một 
bằng  chứng  di  truyền  nào  có  liên  quan,  tỷ  lệ 
xuất hiện ở nữ  là cao hơn  trong hầu hết các  lô 
nghiên cứu. Bệnh nhân thường nhớ đến sự kiện 
khỏi  phát  và  thời  điểm  này  thường  liên  quan 
đến chấn thương hoặc nhiễm trùng dù chưa tìm 
thấy  bằng  chứng  liên  quan  đến  bệnh  sinh. Cả 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 290
hai bệnh nhân trong báo cáo này đều có gia đình 
khỏe mạnh, không ai mắc bệnh tương tự. Bệnh 
nhân  nam  khởi  đầu  lưu  ý  về  bớt  giảm  sắc  tố 
vùng má phải và tìm thuốc điều trị, sau đó thấy 
tình trạng teo mô vùng mặt xuất hiện và nhiều 
thầy  thuốc  cũng  cho  rằng một  loại  thuốc  thoa 
nào đó đã làm teo mô dưới da. Tuy nhiên khi đã 
ngưng  thuốc  thoa,  tình  trạng  teo mô vẫn diễn 
tiến và kéo dài trong nhiều năm. Bệnh nhân nữ 
thì lại thấy có một bớt giảm sắc tố kèm theo tình 
trạng  teo mô dưới da diễn  tiến nhanh. Cả hai 
trường  hợp  đều  không  có  chấn  thương  hay 
nhiễm trùng trước đó. Có ba giả thiết về nguyên 
nhân  của bệnh  là nhiễm  trùng, viêm dây  thần 
kinh sinh ba (V) ngoại biên và giả thiết giao cảm 
nhưng chưa cho đề nay vẫn có một bằng chứng 
xác thực nào được công nhận. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho đến nay là chưa 
có, hội chứng được xác định dưa vào đặc điểm 
lâm  sàng,  thời  điểm khỏi phát, diễn  tiến bệnh, 
các triệu chứng liên quan. Cần chẩn đoán phân 
biệt với các tình trạng hoặc bệnh  lý gây teo mô 
hoặc giảm sản như u bướu, chấn  thương, giảm 
tưới máu,  sau  chiếu xạ. Cả hai bệnh nhân  của 
chúng  tôi  có  tiền  căn,  bệnh  sử,  đặc  điểm  khỏi 
phát, diễn tiến lâm sàng phù hợp với hội chứng 
Parry‐Romberg. 
Về  đánh  giá mức  độ  nặng,  Inigo  và  cộng 
sự(6) theo dõi 35 trường hợp đã đề ra ba mức độ 
của hội  chứng  teo nửa mặt  tiến  triển dựa  trên 
tình  trạng  teo của da và mô dưới da cũng như 
mức  độ  ảnh hưởng  đến  xương  trong phạm vi 
chi phối của dây thần kinh sinh ba (dây V): 
Nhẹ:  teo da và mô dưới da khu  trú  tại một 
vùng do một nhánh dây V chi phối, không ảnh 
hưởng đến xương. 
Trung bình: teo da và mô dưới da khu trú tại 
hai vùng do hai nhánh dây thần kinh V chi phối, 
xương không bị ảnh hưởng. 
Nặng:  teo  da  và mô  dưới  da  ở  tất  cả  các 
vùng  do  cả  ba  nhánh  dây  thần  kinh  chi  phối 
hoặc cấu trúc xương bị ảnh hưởng. 
Theo cách phân loại này, cả hai trường hợp 
của chúng tôi đều thuộc mức độ nặng dù không 
bị ảnh hưởng đến xương. 
Các  phương  pháp  điều  trị  khác  nhau  tùy 
theo mức  độ  ảnh  hưởng.  Robert  J.H(1)  đề  xuất 
chuyển vạt  tự do ghép nối vi phẫu như  là  tiêu 
chuẩn  vàng  trong  tái  cấu  trúc  ở  bệnh  nhân 
Parry‐Romberg;  các  trường  hợp  teo  nhẹ  hoặc 
mất  cân  đối  nhẹ  có  thể  dùng  acid  hyaluronic 
hoặc  collagen  tiêm  dưới  da  cho  kết  quả  trong 
ngắn hạn; đối với các vùng mất cân xứng nhỏ có 
thể  sử  dụng  ghép  nội  bì,  ghép mỡ  hoặc  ghép 
mảnh  cân  cơ nhưng  cần  lưu  ý  khả năng  sống 
của các chất liệu này và dự kiến phải chỉnh sửa 
bù  đắp  sau  một  thời  gian.  Các  tác  giả  Luca 
Vaienti(7),  Silva‐Pinheiro(4),  Y.G.  Illouz(3),  dùng 
phương pháp cấy mỡ dưới da cho kết quả khả 
quan. Bệnh nhân nam của chúng tôi dự kiến sử 
dụng vạt cạnh vai chuyển ghép vi phẫu để phục 
hồi phần  teo khuyết mô  vùng mặt  trầm  trọng 
nhưng  chưa  thực hiện  được; bệnh nhân nữ đã 
được cấy ghép mỡ theo phương pháp Coleman 
cho kết quả khá sau 8 tháng theo dõi. Chúng tôi 
cho  rằng  cấy  ghép  mỡ  là  một  phương  pháp 
tương đối đơn giản, dễ thực hiện, có thể là biện 
pháp chính trong phục hồi mất cân đối mặt hay 
dùng để điều trị bổ sung hoặc lặp lại nhiều lần. 
KẾT LUẬN 
Hội chứng Parry‐Romberg  là  tình  trạng  teo 
nửa mặt bẩm sinh gây mất cân đối khuôn mặt 
làm  người  bệnh  kém  tự  tin.  Điều  trị  khi  bịnh 
ngưng  tiến  triển,  bao  gồm  bù  đắp  phần  thiếu 
hụt mô mềm vùng mặt bằng cách chuyển vạt cơ 
hoặc cấy ghép mỡ tự thân. Cần tiếp tục theo dõi 
diễn  tiến của bệnh và dự kiến cấy ghép mỡ bổ 
sung khi phần mô bù  đắp bị hao hụt. Điều  trị 
các  sang  thương  ngoài  da  đi  kèm  giúp  bệnh 
nhân tự tin hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Havlik  RJ  (2007).  Miscellaneous  craniofacial  conditions: 
Fibrous dysplasia, moebius syndrome, romberg’s syndrome, 
treacher  collins  syndrome, dermoid  cyst, neurofibromatosis, 
In Charles H. Thorne Grabb and Smith’s Plastic Surg 
2. Henta  T,  Itoh  Y,  Tajima  S,  Ishibashi  A  (1999).  “Axonal 
Degeneration  of  Peripheral  Facial  Nerve  in  a  patient  with 
progressive  hemifacial  atrophy”,  Plastic  and  Reconstructive 
Surgery, May 1999, Vol. 103, No. 6, 1700 – 1702.ery, pp 281‐
296,  Lippincott  Williams  &  Wilkins,  Sixth  edition, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  291
Philadenphia, PA 19106 USA. 
3. Illouz YG  (1994). Lipoplastie et chirurgie de  la silhouette,  In 
Pierre  Banzet  et  Jean‐marie  Servant  Chirurgie  plastique 
reconstructrice et esthetique, pp 805‐859, Flammarion Medecine‐
Sciences, Paris France.  
4. Pinheiro TP, Silva CC, Silveira CS, Botelho PC, Pinheiro MD, 
Pinheiro  Jde  J  (2006). “Progressive hemifacial atrophy  ‐ case 
report”, Med Oral Patol Oral Cir Bucal 2006; 11(2): E112‐4. 
5. Stone J (2006). “Parry‐Romberg syndrome”, Practical Neurology 
2006; 6, 185‐188. 
6. Terenzi V, et al (2005). “Parry‐Romberg syndrome: case report”, 
Plastic and Reconstructive Surgery, Oct 2005, Vol. 116, No. 5, 
97‐102.  
7. Vaienti L, Soresina M, Menozzi A (2005). “Parascapular free flap 
and  fat  grafts:  combined  surgical  methods  in  morphological 
restoration  of  hemifacial  progressive  atrophy”,  Plastic  and 
Reconstructive Surgery.Vol. 116, No. 3, 699‐711. 
8. Zaparulla  MY  (1985).  “Progressive  hemifacial  atrophy:  a  case 
report”,  Bristish  Journal  of Ophthamology,  1985,  69(7),  545‐
547. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014