206 người lớn tình nguyện, tuổi ≥75 (83.4 ± 4.4), 66% nữ, BMI 27±3.7kg/m2).
Nguy cơ suy dinh dưỡng được đánh giá bằng phương pháp đánh giá dinh dưỡng nhỏ Mini
Nutritional Assessment (điểm MNA = 17-23.5). Tính dễ tổn thương được đánh giá theo Fried và
cộng sự (2001), là sự có mặt của ít nhất ba trong số tiêu chí sau: Giảm cân >4.5 kg trong năm vừa
qua, mệt mỏi nhiều, hoạt động thể chất kém, sức nắm tay yếu và tốc độ đi bộ chậm hơn 4.57 m. Để
xác định hoạt động thể chất của chi dưới, ba thông số sau đã được đo: giữ thăng bằng, đứng khỏi
ghế và tốc độ đi bộ trên 4m. Điểm số hoạt động thể chất (a physical performance score – SPPB)
được tính theo Guralnik và cộng sự (1994) từ 0 đến 4 cho mỗi thử nghiệm. Tình trạng thể chất suy
yếu được xác định như SPPB ≤9 điểm (tertile thứ nhất). Sự khác nhau về tỷ lệ dễ tổn thương và
Tình trạng thể chất suy yếu có và không có nguy cơ suy dinh dưỡng đã được đánh giá bằng hai thử
nghiệm. Tỷ lệ chênh (OR (95% CI) đã được tính để mô tả nguy cơ dễ bị tổn thương hay có Tình
trạng thể chất suy yếu ở những người có nguy cơ suy dinh dưỡng. 13.1% số người tham gia có
nguy cơ suy dinh dưỡng.
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Hội dinh dưỡng và chuyển hóa lâm sàng Châu Âu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản sinh 
nhiều propionate (~ 56.9 mmol/L, P < 0.05). Thay thế một phần fructan bằng gôm cây keo (Hỗn hợp 
1+) làm thay đổi tốc độ lên men ở đầu gần của ruột dần dần thành lên men cho toàn bộ ruột, thể hiện 
bằng sự a-xít hóa từ từ của ruột. Sự lên men từ từ đã được khẳng định bởi kích thước mở rộng của 
sắc ký đồ: các xơ fructan được lên men rất nhanh ở đoạn đầu của ruột, trong khi gôm cây keo chậm 
hơn, vẫn có thể tìm thấy ở đoạn xa của ruột (xác định bằng sự tăng các men vi khuẩn đặc trưng cho 
sự giáng hóa chất xơ). Cả hai hỗn hợp đều làm tăng hệ sinh vật toàn phần đường ruột và có đăc 
tính sinh vi khuẩn có lợi. 
KẾT LUẬN: 43% bệnh nhân mắc chứng khó nuốt nhập các bệnh viện ở Tây Ban Nha bị suy dinh 
dưỡng, và chỉ có 17% trong số họ được nhận sự hỗ trợ về dinh dưỡng. Bệnh nhân khó nuốt bị suy 
dinh dưỡng có thời gian nằm viện dài hơn đáng kể so với bệnh nhân không suy dinh dưỡng. 
PHƯƠNG PHÁP: PREDyCESR là một nghiên cứu đường ngang, quan sát và đa trung tâm quốc 
gia, được thực hiện trong những điều kiện thực hành lâm sàng. Nó đánh giá tỷ lệ suy dinh dưỡng 
bệnh viện thông qua xét nghiệm sàng lọc NRS-2002R lúc vào viện và khi xuất viện, thời gian nằm 
viện lâu quá mức và chi phí liên quan đến suy dinh dưỡng bệnh viện. Phân tích phụ này xem xét 
những đầu cuối nói trên ở những bệnh nhân tiểu đường trong nghiên cứu chính.
KẾT QUẢ: 352 bệnh nhân khó nuốt gồm 50.6% nam, tuổi trung bình 69.2±17. Lúc nhập viện, 43% 
bệnh nhân bị suy dinh dưỡng (NRS-2002R. 3), và 42% suy dinh dưỡng lúc xuất viện. Tỷ lệ suy dinh 
dưỡng bệnh viện cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân khó nuốt lớn tuổi (≥70 tuổi) (54.6% vs. 
25.5% p<0.001). Tỷ lệ suy dinh dưỡng cũng cao hơn ở những trường hợp vào viện khẩn cấp và các 
bệnh viện nhỏ (p<0.05). Lúc nhập viện, trọng lượng cơ thể trung bình và BMI là 61.4±15.4 kg và 
2 
23.1±5.8 kg/m . 9.2% bệnh nhân bị giảm cân một cách đáng kể trong thời gian nằm viện, và 33.7% 
giảm cân rất nhiều. Sự giảm cân nặng và BMI trung bình trong lúc nằm viện là đáng kể: 1.22±5.2 kg 
và 0.43±2.17 (p<0,001). Thời gian nằm viện trung bình dài hơn một cách có ý nghĩa ở bệnh nhân 
mắc chứng khó nuốt bị suy dinh dưỡng so với những bệnh nhân tương tự nhưng không bị suy dinh 
dưỡng (11.5±7.1 vs. 8.8±6.1 ngày; p<0.001). Chí phí liên quan cũng cao hơn nhưng không có ý 
nghĩa thống kê 8,004±5,855 €. vs. 6,967±5,630 €). 83% bệnh nhân mắc chứng khó nuốt bị suy dinh 
dưỡng không được nhận các hỗ trợ về dinh dưỡng trong thời gian nằm viện. 
Nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và tình trạng dễ bị 
viêm của các bột bổ sung dinh dưỡng có nhiều axit béo 
eicosapentaenoic so với các dung dịch bổ sung 
thông thường cho bệnh nhân ung thư
Tác dụng của dung dịch sữa- kỷ tử (Lacto-wolfberry) lên 
chức năng miễn dịch và tình trạng thể chất của người có tuổi 
CƠ SỞ LÝ LUẬN: Kỷ tử (Gojiberry, quả của cây Lycium barbarum) đã được sử dụng từ hơn 2000 
năm nay trong các bài thuốc cổ truyền Trung Quốc. Những năm gần đây, thực phẩm và đồ uống chế 
biến có chứa kỷ tử đã trở nên phổ biến ở các nước phương Tây và được ưa chuộng, vì tác dụng tốt 
lên sức khỏe và đặc tính chống lão hóa của nó. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là nhằm tìm ra 
bằng chứng lâm sàng về tác dụng của chế độ ăn có dung dịch sữa pha thêm kỷ tử lên chức năng 
miễn dịch và thể chất của những người già khỏe mạnh. 
CƠ SỞ LÝ LUẬN: Để đánh giá tác dụng lên tình trạng dinh dưỡng và viêm của sản phẩm nghiên 
cứu so với dung dịch thông thường trên nhóm bệnh nhân ung thư.
KẾT LUẬN: Công thức mới này cho những bệnh nhân suy mòn vì ung thư đã làm giảm các chất ghi 
dấu quá trình viêm và tăng prealbumin là chất ghi dấu hóa sinh của tình trạng dinh dưỡng. Điều này 
cho một lựa chọn mới trong hỗ trợ bệnh nhân ung thư. 
PHƯƠNG PHÁP: Một nghiên cứu lâm sàng hồi cứu, mù đơn, ngẫu nhiên trên 58 bệnh nhân ung 
thư trên 18 tuổi cần hỗ trợ dinh dưỡng. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm 
nghiên cứu (RSI®, cần nguồn hỗ trợ ngay, được chỉ định nhận 3 gói, mỗi gói 50g bột giàu EPA, 642 
kcal+19,5 g protein+1,5g EPA) và nhóm chứng (C) (được nhận hai hộp dinh dưỡng thông thường 
gồm 200ml, 600 kcal+27,2 g protein). Cả hai nhóm được theo dõi trong một tháng (thăm viếng hai 
lần) và gọi điện thoại giữa hai lần thăm viếng. Đánh giá chủ quan toàn thể được bệnh nhân thực 
hiện (Subjective global assessments - VGS-gp) và các thông số về nhân trắc, sinh hóa và tính dễ bị 
viêm đã được thu thập. 
KẾT QUẢ: Tuổi trung bình là 61±9 (62.7% nam) mỗi nhóm gồm 29 người ngẫu nhiên. Theo VGS-
gp lúc bắt đầu, 7% được dinh dưỡng tốt, 83.7% được dinh dưỡng vừa phải và 9.3% suy dinh 
dưỡng nặng. Cả hai nhóm đều duy trì được các thông số nhân trắc và tiền albumin tăng lên đáng kể 
(RSI 16,1±5,6 vs 19.46±6.75 mg/dL p<0,05; C 16.55±6.13 vs 19.03±5.47 mg/dL p<0,05). Các tế 
bào lympho tăng ở nhóm RSI (1712±801 vs 1825±820 x10e3/μL p<0,01). Nhóm RSI đã cho thấy 
sự giảm đáng kể các giá trị của interferon gamma (IFNG) (0,99±0,95 vs 0,65±0,92 pg/ml p<0,05), 
so với giá trị tăng của nhóm C (1,62±1,27 vs 2,2±3,19 p<0,05).
PHƯƠNG PHÁP: Một nghiên cứu ngẫu nhiên một trung tâm, mù đôi, bệnh chứng đã được tiến 
hành ở những người già Trung Quốc khỏe mạnh sống tự do (65 – 70 tuổi, n=150). Nhóm điều trị 
được nhận Lacto-wolfberry (13.7g/ngày) trong ba tháng. Tất cả đối tượng nghiên cứu đều được 
tiêm chủng phòng virus cúm inuenza lúc 30 ngày và được khám mắt và chẩn đoán y học cổ truyền 
Trung Quốc trước và sau khi ăn bổ sung dung dịch trên.
KẾT LUẬN: Dùng Lacto-wolfberry lâu dài sẽ cải thiện được chức năng miễn dịch và tình trạng thể 
chất của người cao tuổi; điều đó có thể là do wolfberry có nhiều chất chống ô-xy hóa. 
KẾT QUẢ: So với nhóm giả dược, đáp ứng với vắc-xin cúm cao hơn một cách có ý nghĩa ở những 
đối tượng được uống Lacto-Wolfberry (đáp ứng kháng sinh kháng cúm đặc hiệu: p=0.001; đảo 
ngược huyết thanh giữa các ngày 30 và 90: OR=3.4 [1.21; 9.61]; p=0.021). Nhóm dùng Lacto-
Wolfberry cho thấy ít bị nổi ban giảm sắc tố hơn (p<0.01) và hoàng điểm mềm mại hơn (p=0.02) so 
với nhóm dùng giả dược. Hội chứng âm hư (khô miệng và họng, khó chịu, mất ngủ và chế độ xung) 
đã được cải thiện rõ rệt ở nhóm dùng Lacto-wolfberry. Tất cả những thay đổi đó diễn ra song song 
với sự tăng đáng kể khả năng chống ô-xy hóa của huyết thanh (p<0.01) ở nhóm dùng Lacto-
wolfberry so với nhóm giả dược. 
Tiết lộ quan tâm: Không khai báo 
Keywords: dysphagia, screening
Thiếu arginine do phẫu thuật hoặc chấn thương gây rối loạn 
chức năng tế bào lympho T và làm tăng 
tính nhạy cảm với nhiễm trùng
CƠ SỞ LÝ LUẬN: Arginine là tác nhân quan trọng điều hòa những đáp ứng miễn dịch sau phẫu 
thuật hoặc chấn thương. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm ra tác dụng của sự hồi phục của 
arginine đối với chức năng lympho T và tính nhạy cảm với nhiễm trùng trong cơ thể sống. 
KẾT LUẬN: Nghiên cứu này gợi ý rằng sự sụt giảm arginine là hậu quả của việc argininase sinh ra 
MDSC sau khi bị chấn thương, gây ra bởi sự giảm chức năng của tế bào T và tăng sự nhạy cảm với 
nhiễm trùng. Việc phục hồi arginine có thể cải thiện chức năng tế bào T và phòng chống nhiễm 
trùng sau mổ. 
PHƯƠNG PHÁP: Lượng arginine nội bào trong các tế bào T, lympho T độc tế bào, hoạt động và 
gánh nặng vi khuẩn ở 1) chuột không bị gây chấn thương, 2) chuột bị gây chấn thương, 3) chuột bị 
gây chấn thương được điều trị bằng Nw-Hydroxynor-L-arginine (nor-NOHA, chất ức chế cạnh 
tranh arginase) đã được đánh giá. Số liệu được phân tích bởi phép phân tích một chiều dao động 
quanh số trung bình của ba hặc nhiều hơn ba biến số, ANOVA).
KẾT QUẢ: Arginase-1, gây ra bởi chấn thương, sinh ra những tế bào diệt có nguồn gốc myeloid 
(MDSC) trong lách, có thể dẫn đến thiếu arginine nội bào của tế bào T (73.41 ± 0.75 μM so với 8.83 
± 1.63 μM, p<0.0001), giảm một cách có ý nghĩa hoạt động của lympho T độc tế bào (28.0 ± 4.0% vs 
58.3 ± 3.2%, p<0.001) và tăng đáng kể sự nhạy cảm (chuột bị gây chấn thương biểu lộ sự tăng 
gánh nặng vi khuẩn một cách có ý nghĩa, nhiều hơn 2-3 log gánh nặng vi khuẩn trong lách và 3-5 log 
gánh nặng vi khuẩn trong gan so với nhóm chuột không bị gây chấn thương, p<0.0001). Điều trị 
bằng Nor-NOHA có thể đảo ngược đáng kể sự thiếu arginine nội bào của tế bào T (8.83 ± 1.63 μM 
vs 37.79 ± 4.44 μM, p=0.0031), và sự ức chế hoạt động của lympho T độc tế bào (29.1 ± 2.6% vs 
61.2 ± 3.3%, p<0.01) và sự tăng gánh nặng vi khuẩn (chuột bị gây chấn thương được điều trị bằng 
Nor-NOHA cho thấy giảm 2-log gánh nặng vi khuẩn trong lách và gan so với chuột bị gây chấn 
thương nhưng không được điều trị bằng Nor-NOHA, p<0.001).
GHI CHÚ
GHI CHÚ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 600799e11ef57a1cf7cbe4130da385d2_7097.pdf 600799e11ef57a1cf7cbe4130da385d2_7097.pdf