CÁC HƯỚNG DẪN HỒI SINH TIM PHỔI 2000 VÀ 2005
Năm 1993 Ủy ban Liên lạc Quốc tế về Hồi sinh (International Liaison 
Committee on Resuscitation, viết tắt là ILCOR) được thành lập nhằm nhận 
diện và xem xét các chứng cứ khoa học vềhồi sinh tim phổi và cấp cứu tim 
mạch và tiến đến một sự đồng thuận quốc tế về các hướng dẫn điều trị. 
ILCOR gồm 7 tổ chức là Hiệp hội Tim Hoa Kỳ, Hội đồng Hồi sinh châu Âu, 
Hội Tim và Đột quị Canada, Hội đồng Hồi sinh Nam Phi, Ủy ban Hồi sinh 
Úc và New Zealand, Hội Tim Liên Mỹ và Hội đồng Hồi sinh châu Á. Kết 
quả hoạt động của ILCOR là việc công bố "Hướng dẫn quốc tế về Hồi sinh 
tim phổi và cấp cứu tim mạch năm 2000" 1. Đây là văn kiện đồng thuận 
quốc tế đầu tiên về hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch. Trong những 
năm sau đó, các chuyên gia thuộc các hội đồng thành viên của ILCOR lại 
tiếp tục công việc đánh giá các chứng cứ khoa học. Năm 2005, Hội Tim Hoa 
Kỳ với tư cách là chủ nhà đã phối hợp với ILCOR tổ chức Hội nghị đồng 
thuận quốc tế về khoa học hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch kèm với 
các khuyến cáo điều trị 2. Các khuyến cáo đưa ra tại hội nghị này được các 
chuyên gia Hoa Kỳ dùng làm cơ sở để biên soạn "Hướng dẫn năm 2005 của 
Hiệp hội Tim Hoa Kỳ về hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch" 3. Hướng 
dẫn 2005 đã chính thức thay thế hướng dẫn 2000. So với hướng dẫn 2000, 
hướng dẫn 2005 có một số thay đổi quan trọng
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Hồi sinh tim phổi ở người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồi sinh tim phổi ở người lớn 
CÁC HƯỚNG DẪN HỒI SINH TIM PHỔI 2000 VÀ 2005 
Năm 1993 Ủy ban Liên lạc Quốc tế về Hồi sinh (International Liaison 
Committee on Resuscitation, viết tắt là ILCOR) được thành lập nhằm nhận 
diện và xem xét các chứng cứ khoa học về hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim 
mạch và tiến đến một sự đồng thuận quốc tế về các hướng dẫn điều trị. 
ILCOR gồm 7 tổ chức là Hiệp hội Tim Hoa Kỳ, Hội đồng Hồi sinh châu Âu, 
Hội Tim và Đột quị Canada, Hội đồng Hồi sinh Nam Phi, Ủy ban Hồi sinh 
Úc và New Zealand, Hội Tim Liên Mỹ và Hội đồng Hồi sinh châu Á. Kết 
quả hoạt động của ILCOR là việc công bố "Hướng dẫn quốc tế về Hồi sinh 
tim phổi và cấp cứu tim mạch năm 2000" 1. Đây là văn kiện đồng thuận 
quốc tế đầu tiên về hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch. Trong những 
năm sau đó, các chuyên gia thuộc các hội đồng thành viên của ILCOR lại 
tiếp tục công việc đánh giá các chứng cứ khoa học. Năm 2005, Hội Tim Hoa 
Kỳ với tư cách là chủ nhà đã phối hợp với ILCOR tổ chức Hội nghị đồng 
thuận quốc tế về khoa học hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch kèm với 
các khuyến cáo điều trị 2. Các khuyến cáo đưa ra tại hội nghị này được các 
chuyên gia Hoa Kỳ dùng làm cơ sở để biên soạn "Hướng dẫn năm 2005 của 
Hiệp hội Tim Hoa Kỳ về hồi sinh tim phổi và cấp cứu tim mạch" 3. Hướng 
dẫn 2005 đã chính thức thay thế hướng dẫn 2000. So với hướng dẫn 2000, 
hướng dẫn 2005 có một số thay đổi quan trọng. 
1. Tỉ lệ nhấn ngực:hô hấp nhân tạo: Theo hướng dẫn 2000, tỉ lệ 
nhấn ngực:hô hấp nhân tạo khi chưa đặt nội khí quản là 15:2. Theo hướng 
dẫn 2005, tỉ lệ này là 30:2. Việc tăng tỉ lệ nhấn ngực:hô hấp nhân tạo từ 15:2 
lên 30:2 là nhằm giảm thiểu thời gian ngưng nhấn ngực (thời gian ngưng 
nhấn ngực để hô hấp nhân tạo 2 cái là khoảng 15 giây). Lý do của sự thay 
đổi này là vì nhiều nghiên cứu trên động vật thí nghiệm và trên mô hình và 
một số nghiên cứu trên người cho thấy nhấn ngực càng ít bị ngắt quãng thì 
áp lực tưới máu mạch vành càng tăng và khả năng thành công của hồi sinh 
tim phổi càng cao 2,3. Sau khi đặt nội khí quản thì không cần xen kẽ nhấn 
ngực và hô hấp nhân tạo, tần số nhấn ngực vẫn là 100/phút và tần số bóp 
bóng giúp thở qua ống nội khí quản là 8-10/phút. 
2. Xử trí ban đầu ngưng tim do rung thất: Theo hướng dẫn 2005, 
trong rung thất mới xuất hiện (dưới 3-4 phút), sốc điện phá rung là biện pháp 
được lựa chọn. Tuy nhiên nếu ngưng tim xảy ra ngoài bệnh viện và không 
được nhân viên cấp cứu chứng kiến hoặc nếu biết rõ thời gian từ lúc ngưng 
tim đến khi đội cấp cứu có mặt tại hiện trường là trên 4-5 phút, nên thực 
hiện 5 chu kỳ nhấn ngực-hô hấp nhân tạo (khoảng 2 phút) trước khi sốc điện 
phá rung. 
3. Sốc điện: Theo hướng dẫn 2000, khi cấp cứu rung thất hoặc nhịp 
nhanh thất mất mạch, người cấp cứu đánh lần lượt 3 cú sốc điện với mức 
năng lượng tăng dần, kiểm tra nhịp (trên máy monitor-phá rung) trước và 
sau mỗi cú sốc điện và không nhấn ngực-hô hấp nhân tạo giữa các cú sốc 
điện. Hướng dẫn 2005 có nhiều thay đổi quan trọng. Thay đổi thứ nhất là sốc 
điện một cú duy nhất thay vì 3 cú với mức năng lượng tăng dần. Mục đích 
của thay đổi này là nhằm hạn chế sự gián đoạn nhấn ngực (theo qui trình của 
hướng dẫn 2000, thời gian từ khi đánh cú sốc điện đầu tiên cho đến khi nhấn 
ngực trở lại là từ 29 đến 37 giây). Năng lượng cú sốc điện duy nhất này ở 
người lớn là 360 J nếu dùng máy sốc điện có dạng sóng một pha. Nếu dùng 
máy sốc điện có dạng sóng 2 pha, năng lượng cú sốc điện là 150-200 J đối 
với dạng sóng biphasic truncated exponential (BTE) và 120 J đối với dạng 
sóng rectilinear biphasic. Ngay sau cú sốc điện phải nhấn ngực ngay chứ 
không được mất thời gian cho việc đánh giá tuần hoàn (bắt mạch và kiểm tra 
nhịp trên máy monitor). Chỉ sau khi đã thực hiện 2 phút nhấn ngực-giúp thở 
(khoảng 5 chu kỳ nhấn ngực xen kẽ hô hấp nhân tạo trong trường hợp chưa 
đặt nội khí quản) thì mới đánh giá tuần hoàn và đánh sốc điện tiếp nếu nhịp 
vẫn là rung thất hoặc nhịp nhanh thất mất mạch. 
4. Thuốc vận mạch và thuốc chống loạn nhịp: Theo hướng dẫn 
2005, epinephrine là thuốc vận mạch chuẩn, liều tiêm tĩnh mạch ở người lớn 
là 1 mg mỗi lần, nhắc lại mỗi 3-5 phút. Có thể thay thế 2 liều epinephrine 
thứ nhất và thứ hai bằng một liều vasopressin 40 đơn vị tiêm tĩnh mạch. 
Trong cấp cứu rung thất và nhịp nhanh thất mất mạch, thuốc vận mạch được 
dùng sau khi đã thất bại với cú sốc điện đầu tiên. 
Các thuốc chống loạn nhịp dùng trong hồi sinh tim phổi gồm 
amiodarone và lidocaine. Theo hướng dẫn 2005, thuốc chống loạn nhịp được 
xem xét dùng nếu nhịp vẫn là rung thất hoặc nhịp nhanh thất mất mạch sau 
khi đã sốc điện 2 cú và dùng thuốc vận mạch. Liều dùng amiodarone là 300 
mg tiêm tĩnh mạch, có thể nhắc lại 150 mg. Liều dùng lidocaine là 1-1,5 
mg/kg tiêm tĩnh mạch, có thể nhắc lại 0,5-0,75 mg/kg cách mỗi 5-10 phút 
nhưng không vượt quá 3 mg/kg. 
5. Hạ thân nhiệt trị liệu: Hạ thân nhiệt trị liệu (therapeutic 
hypothermia) lần đầu tiên được đề cập trong hướng dẫn 2005: Những người 
lớn có hồi phục tuần hoàn nhưng không tỉnh sau ngưng tim ngoài bệnh viện 
cần được hạ thân nhiệt xuống 32-340C trong 12-24 giờ nếu nhịp ban đầu là 
rung thất. Biện pháp này cũng có thể được xem xét dùng nếu nhịp ban đầu 
không phải rung thất (đối với ngưng tim ngoài bệnh viện) và cả sau ngưng 
tim trong bệnh viện. Để xử trí hiện tượng run khi hạ thân nhiệt phải dùng 
thuốc an thần và thuốc liệt cơ nếu cần. 
HỒI SINH TIM PHỔI VỚI NHẤN NGỰC ĐƠN THUẦN 
Hướng dẫn 2005 đã xác định nhấn ngực hữu hiệu (đủ tần số, đủ biên 
độ và ít bị ngắt quãng nhất) là một chìa khóa quan trọng cho thành công của 
hồi sinh tim phổi. Trong năm 2007 có 3 nghiên cứu được công bố so sánh 
hiệu quả của hồi sinh tim phổi chuẩn với hồi sinh tim phổi với nhấn ngực 
đơn thuần (tức là không có hô hấp nhân tạo, trong y văn tiếng Anh gọi là 
hands-only CPR hoặc compression-only CPR) trong ngưng tim ngoài bệnh 
viện. Các nghiên cứu này là những nghiên cứu quan sát chứ không phải thử 
nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, tuy nhiên cả 3 đều có qui mô rất 
lớn nên kết quả đáng lưu ý. Nghiên cứu SOS-KANTO là một điều tra về 
những trường hợp ngưng tim ngoài bệnh viện (tuổi ≥ 18) có người chứng 
kiến và sau đó được chuyển vào khoa cấp cứu của các bệnh viện tại vùng 
Kanto (Nhật) từ 1/9/2002 đến 31/12/2003 4. Nghiên cứu của Iwami và cộng 
sự là một khảo sát trên những trường hợp ngưng tim ngoài bệnh viện (tuổi ≥ 
18) nghĩ do nguyên nhân tim, có người chứng kiến và được điều trị tại các 
khoa cấp cứu của thành phố Osaka (Nhật) từ 1/5/1998 đến 30/4/2003 5. 
Nghiên cứu của Bohm và cộng sự là một nghiên cứu sổ bộ về những trường 
hợp ngưng tim ngoài bệnh viện được cấp cứu bởi người chứng kiến (không 
phải nhân viên cấp cứu, nhân viên y tế hoặc cảnh sát) tại Thụy Điển từ 1990 
đến 2005 6. Kết quả của 3 nghiên cứu này được tóm tắt trên bảng 1. Cả 3 
nghiên cứu đều cho kết quả giống nhau là hồi sinh tim phổi với nhấn ngực 
đơn thuần có hiệu quả tương đương hồi sinh tim phổi chuẩn. Trong nghiên 
cứu SOS-KANTO, các tác giả ghi nhận hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn 
thuần có hiệu quả cao hơn hồi sinh tim phổi chuẩn ở 3 phân nhóm sau: có 
ngưng thở khi đội cấp cứu đến (tỉ lệ phục hồi thần kinh tốt sau 30 ngày là 
6,2% ở những người được hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần và 
3,1% ở những người được hồi sinh tim phổi chuẩn, p = 0,0195), ngưng tim 
do rung thất hoặc nhịp nhanh thất (các tỉ lệ tương ứng là 19,4% và 11,2%, p 
= 0,041) và hồi sinh tim phổi được bắt đầu trong vòng 4 phút sau ngưng tim 
(các tỉ lệ tương ứng là 10,1% và 5,1%, p = 0,0221) 4. Còn theo Iwami và 
cộng sự, hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần có hiệu quả cao hơn hồi 
sinh tim phổi chuẩn ở phân nhóm có thời gian ngưng tim ngắn (≤ 15 phút): 
Trong phân nhóm này tỉ lệ sống sót và có phục hồi thần kinh tốt sau 1 năm 
là 4,3% ở những người được hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thần và 
2,5% ở những người được hồi sinh tim phổi chuẩn (OR = 1,72; KTC 95% 
1,01-2,95) 5. 
Bảng 1: Các nghiên cứu quan sát so sánh hồi sinh tim phổi chuẩn và 
hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần. 
Nghiên cứu Tiêu chí đánh giá Nhóm HSTP 
chuẩn 
Nhóm HSTP với 
nhấn ngực đơn 
thuần 
SOS-KANTO 
4 
Phục hồi thần kinh tốt 
sau 30 ngày 
30/712 (4%) 27/439 (6%) 
Iwami 5 Sống sót và có phục 
hồi thần kinh tốt sau 
1 năm 
28/783 (3,6%) 19/544 (3,5%) 
Bohm 6 Sống sót sau 1 tháng 591/8209 (7%) 77/1145 (7%) 
Xuất phát từ các kết quả thuận lợi trên và một số chứng cứ khác, năm 
2008 Ủy ban Cấp cứu tim mạch (Emergency cardiovascular care 
committee) thuộc Hiệp hội Tim Hoa Kỳ đã đưa ra một khuyến cáo trong đó 
khuyến khích việc hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần trong trường 
hợp người chứng kiến ngưng tim không được huấn luyện cách hồi sinh tim 
phổi chuẩn 7. Nội dung khuyến cáo này được tóm tắt trên bảng 2. 
Bảng 2: Khuyến cáo 2008 của Hiệp hội Tim Hoa Kỳ về hồi sinh tim 
phổi với nhấn ngực đơn thuần 7. 
Khi một người lớn bất ngờ ngã gục, những người chứng kiến đã được 
hoặc chưa được huấn luyện cần kích hoạt hệ thống cấp cứu cộng đồng (ví dụ 
gọi 911) và thực hiện ngay việc xoa bóp tim ngoài lồng ngực có chất lượng 
bằng cách nhấn mạnh và nhanh ở giữa ngực và hạn chế việc ngắt quãng 
(khuyến cáo loại I). 
● Nếu người chứng kiến chưa được huấn luyện cách hồi sinh tim phổi 
chuẩn thì nên thực hiện hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần (khuyến 
cáo loại IIa). 
● Nếu người chứng kiến đã từng được huấn luyện cách hồi sinh tim 
phổi chuẩn và tự tin về khả năng của mình có thể cung cấp hô hấp nhân tạo 
mà ít gây gián đoạn nhất việc nhấn ngực thì người này có thể thực hiện hồi 
sinh tim phổi chuẩn với tỉ lệ nhấn ngực:hô hấp nhân tạo 30:2 (khuyến cáo 
loại IIa) hoặc hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần (khuyến cáo loại 
IIa). 
● Nếu người chứng kiến đã từng được huấn luyện cách hồi sinh tim 
phổi chuẩn nhưng không tự tin về khả năng của mình có thể nhấn ngực có 
hiệu quả kèm hô hấp nhân tạo thì người này nên thực hiện hồi sinh tim phổi 
với nhấn ngực đơn thuần (khuyến cáo loại IIa). 
Trong cả 3 tình huống trên người cấp cứu nên tiếp tục hồi sinh tim 
phổi cho đến khi có một máy phá rung tự động ngoài lồng ngực được mang 
đến và sẵn sàng sử dụng hoặc nhân viên đội cấp cứu tiếp quản việc chăm 
sóc. 
Trong tháng 7 năm 2010 này trên báo The New England Journal of 
Medicine có 2 bài báo công bố kết quả của 2 thử nghiệm lâm sàng phân 
nhóm ngẫu nhiên so sánh hiệu quả của hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn 
thuần với hồi sinh tim phổi chuẩn trong ngưng tim ngoài bệnh viện. Một thử 
nghiệm lâm sàng được thực hiện đồng thời tại King County và Thurston 
County thuộc bang Washington (Hoa Kỳ) và London (Anh) trên 1941 ca 
ngưng tim ngoài bệnh viện, trong đó 981 ca được phân vào nhóm hồi sinh 
tim phổi với nhấn ngực đơn thuần và 960 ca được phân vào nhóm hồi sinh 
tim phổi chuẩn 8. Các tác giả báo cáo tỉ lệ sống sót đến khi xuất viện (là tiêu 
chí đánh giá chính) của 2 nhóm tương đương nhau (12,5% so với 11,0%, p = 
0,31). Thử nghiệm lâm sàng thứ hai được thực hiện tại Thụy Điển trên 1276 
ca ngưng tim ngoài bệnh viện, trong đó 620 ca được phân vào nhóm hồi sinh 
tim phổi với nhấn ngực đơn thuần và 656 ca được phân vào nhóm hồi sinh 
tim phổi chuẩn 9. Các tác giả báo cáo tỉ lệ sống sót sau 30 ngày (là tiêu chí 
đánh giá chính) của 2 nhóm khác biệt không có ý nghĩa (8,7% so với 7,0%, 
p = 0,29). 
Hồi sinh tim phổi với nhấn ngực đơn thuần đơn giản và dễ huấn luyện 
hơn so với hồi sinh tim phổi chuẩn. Nay với hàng loạt chứng cứ cho thấy nó 
có hiệu quả không thua kém hồi sinh tim phổi chuẩn, có thể dự đoán là 
phương pháp này sẽ chiếm vị trí ưu tiên trong các hướng dẫn tương lai về 
cấp cứu ngưng tim ngoài bệnh viện. 
HỒI SINH TIM PHỔI CÁC TRƯỜNG HỢP NGƯNG TIM 
TRONG BỆNH VIỆN 
Hiện nay chất lượng hồi sinh tim phổi các trường hợp ngưng tim trong 
bệnh viện vẫn còn nhiều vấn đề, ngay cả ở một quốc gia có nền y học tiên 
tiến như Hoa Kỳ. Theo báo cáo của Abella và cộng sự, qui trình hồi sinh tim 
phổi các trường hợp ngưng tim tại các bệnh viện thuộc Trường Đại học 
Chicago có những sai sót sau: nhấn ngực với tần số dưới 90/phút (28,1%), 
nhấn ngực không đủ biên độ (37,4%), thông khí quá nhanh trên 20 lần/phút 
(60,9%) và thường xuyên gián đoạn việc nhấn ngực 10. Còn theo báo cáo 
của Peberdy và cộng sự (số liệu lấy từ nghiên cứu sổ bộ quốc gia về hồi sinh 
tim phổi của Hoa Kỳ, từ 1/1/2000 đến 1/2/2007), tỉ lệ sống sót đến khi xuất 
viện của những trường hợp ngưng tim trong bệnh viện tùy thuộc vào thời 
điểm ngưng tim: tỉ lệ này thấp hơn nếu ngưng tim xảy ra ban đêm so với ban 
ngày (14,7% so với 19,8%, p < 0,001) và nếu xét riêng các trường hợp 
ngưng tim xảy ra vào ban ngày thì tỉ lệ này thấp hơn nếu ngưng tim xảy ra 
vào các ngày cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) so với các ngày trong tuần 
(17,4% so với 20,6%, p < 0,05) 11. Chan và cộng sự cũng sử dụng các số 
liệu của nghiên cứu sổ bộ quốc gia về hồi sinh tim phổi của Hoa Kỳ để khảo 
sát sự kịp thời của sốc điện phá rung trong bệnh viện 12. Từ 1/1/2000 đến 
31/5/2005 trong 369 bệnh viện tham gia nghiên cứu sổ bộ quốc gia có 6789 
bệnh nhân bị ngưng tim do rung thất hoặc nhịp nhanh thất mất mạch. Trong 
số này có 2045 (30,1%) bệnh nhân được sốc điện phá rung trễ so với hướng 
dẫn (hơn 2 phút kể từ khi ngưng tim). So với bệnh nhân được sốc điện kịp 
thời, bệnh nhân được sốc điện trễ có tỉ lệ sống sót đến khi xuất viện thấp hơn 
(22,2% so với 39,3%, p < 0,001)12. Các thông tin nói trên rất quan trọng, 
nêu bật sự cần thiết phải tăng cường huấn luyện các kỹ năng và hoàn thiện 
việc tổ chức cấp cứu trong bệnh viện, đặc biệt là ban đêm và các ngày cuối 
tuần. 
Trong năm 2009, một nhóm nhà nghiên cứu thuộc bệnh viện Trường 
Đại học Athens (Hy Lạp) đã báo cáo việc phối hợp vasopressin với 
epinephrine và methylprednisolone succinate nhằm cải thiện kết quả hồi sinh 
tim phổi các trường hợp ngưng tim trong bệnh viện 13. Trong nghiên cứu 
này, bệnh nhân người lớn ngưng tim trong bệnh viện được phân ngẫu nhiên 
vào nhóm phối hợp thuốc (vasopressin 20 đơn vị/chu kỳ + epinephrine 1 
mg/chu kỳ trong 5 chu kỳ đầu tiên, kèm methylprednisolone 40 mg ở chu kỳ 
đầu tiên và 300 mg/ngày trong 7 ngày kế tiếp nếu sau đó bệnh nhân có 
choáng) hoặc nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ sống sót đến 
khi xuất viện của nhóm phối hợp thuốc cao hơn so với nhóm chứng (19% so 
với 4%, p = 0,02). 
CHĂM SÓC TRONG HỘI CHỨNG SAU NGƯNG TIM 
Sự phục hồi tuần hoàn tự nhiên sau một đợt thiếu tưới máu toàn thân 
nặng và kéo dài là một tình trạng sinh lý bệnh đặc thù được tạo ra bởi hồi 
sinh tim phổi thành công. Tình trạng này là một phối hợp phức tạp của nhiều 
quá trình sinh lý bệnh gồm: (1) tổn thương não sau ngưng tim, (2) rối loạn 
chức năng cơ tim sau ngưng tim, và (3) đáp ứng thiếu máu cục bộ/tái tưới 
máu hệ thống. Các chuyên gia thuộc ILCOR đã dùng cụm từ "hội chứng sau 
ngưng tim" (post-cardiac arrest syndrome) để chỉ tình trạng này 14. 
Năm 2008, các chuyên gia của ILCOR, Ủy ban cấp cứu tim mạch 
thuộc Hiệp hội Tim Hoa Kỳ, Hội đồng phẫu thuật và gây mê tim mạch Hoa 
Kỳ, Hội đồng chăm sóc tim phổi, chăm sóc chu phẫu và săn sóc đặc biệt 
Hoa Kỳ và Hội đồng đột quị Hoa Kỳ đã phối hợp biên soạn một văn kiện 
đồng thuận về chăm sóc và tiên lượng trong hội chứng sau ngưng tim 14. Về 
mặt theo dõi, người bệnh sau ngưng tim cần 3 dạng theo dõi sau: theo dõi 
tích cực chung, theo dõi huyết động tăng cường và theo dõi não (bảng 3). 
Theo dõi tích cực chung là tối thiểu, các dạng theo dõi còn lại có thể được 
bổ sung tùy tình trạng của từng bệnh nhân và trang bị cũng như kinh nghiệm 
ở từng nơi. 
Bảng 3: Theo dõi trong hội chứng sau ngưng tim 14. 
1. Theo dõi tích cực chung 
Ca-tê-te trong động mạch 
Độ bão hòa oxy qua da 
Điện tim liên tục 
Áp lực tĩnh mạch trung tâm 
Độ bão hòa oxy máu tĩnh mạch trung tâm 
Nhiệt độ (bàng quang, thực quản) 
Lưu lượng nước tiểu 
Khí máu động mạch 
Lactate huyết thanh 
Đường huyết, điện giải, công thức máu, xét nghiệm máu tổng quát 
X-quang ngực 
2. Theo dõi huyết động tăng cường 
Siêu âm tim 
Đo cung lượng tim (đo không xâm nhập hoặc bằng ca-tê-te động 
mạch phổi) 
3. Theo dõi não 
Điện não đồ (khi cần/liên tục): phát hiện sớm và điều trị co giật 
CT/MRI não 
Chăm sóc trong hội chứng sau ngưng tim bao gồm: tối ưu hóa huyết 
động sớm, cung cấp thông khí và oxy hóa tối ưu, hạ thân nhiệt trị liệu, ngừa 
và kiểm soát co giật và kiểm soát tăng đường huyết. Những người ngưng tim 
được hồi sinh tim phổi thành công có tiêu chuẩn điện tim của nhồi máu cơ 
tim cấp với ST chênh lên cần được chụp mạch vành ngay và can thiệp mạch 
vành qua da nếu có chỉ định. Vì tần suất hội chứng mạch vành cấp ở người 
ngưng tim ngoài bệnh viện khá cao và điện tim có nhiều hạn chế trong chẩn 
đoán nhồi máu cơ tim cấp, cũng nên xem xét chụp mạch vành ngay cho 
những người ngưng tim được hồi sinh tim phổi thành công và nghi ngờ có 
hội chứng mạch vành cấp. 
Liệu pháp an thần và liệt cơ có vị trí quan trọng. An thần đầy đủ (bao 
gồm cả thuốc nhóm opioid lẫn thuốc gây ngủ như propofol hay 
benzodiazepine) giúp giảm tiêu thụ oxy, giúp bệnh nhân thích ứng với máy 
thở và ngăn ngừa run liên quan với hạ thân nhiệt trị liệu. Thuốc liệt cơ được 
chỉ định khi bệnh nhân vẫn run dù đã được dùng an thần đầy đủ. Trên bảng 4 
tóm tắt các thành phần chính của chăm sóc trong hội chứng sau ngưng tim. 
Bảng 4: Chăm sóc trong hội chứng sau ngưng tim 14. 
Tối ưu hóa 
huyết động 
Đạt các mục tiêu: huyết áp trung bình 65-100 mm 
Hg, áp lực tĩnh mạch trung tâm 8-12 mm Hg, độ bão 
hòa oxy máu tĩnh mạch trung tâm > 70%, lưu lượng 
nước tiểu > 1 ml/kg/giờ và lactate huyết thanh bình 
thường hoặc giảm. 
Để đạt các mục tiêu này, xem xét: bù dịch, dùng 
thuốc vận mạch, thuốc tăng co bóp, đặt bóng đối xung 
trong động mạch chủ và ECMO (extracorporeal 
membrane oxygenation). 
Cung cấp 
thông khí và oxy 
hóa tối ưu 
Đạt PCO2 bình thường, tránh giảm thông khí 
cũng như tăng thông khí. 
Điều chỉnh FiO2 để đạt độ bão hòa oxy máu động 
mạch 94-96%. 
Hạ thân 
nhiệt trị liệu (nếu 
không hạ thân 
nhiệt trị liệu thì 
cũng phải điều trị 
thật tích cực tình 
trạng tăng thân 
nhiệt, nếu có, 
trong 72 giờ đầu) 
Hạ thân nhiệt xuống 32-34º C trong 12-24 giờ. 
Gồm 3 giai đoạn: bắt đầu, duy trì và sưởi ấm trở lại. 
Bắt đầu: truyền tĩnh mạch dung dịch NaCl 0,9% 
hoặc lactate Ringer lạnh hoặc chườm các túi nước đá ở 
nách, bẹn, quanh đầu và cổ. Có thể phải dùng an thần ± 
liệt cơ để ngừa run. 
Duy trì: bằng các dụng cụ làm lạnh bên ngoài 
(chăn lạnh hoặc hệ thống chứa nước lạnh hay không khí 
lạnh lưu thông bên trong) hoặc bên trong (ca-tê-te đặt 
vào tĩnh mạch đùi hoặc tĩnh mạch dưới đòn). 
Sưởi ấm trở lại: tăng thân nhiệt 0,25-0,5º C mỗi 
giờ. 
Ngừa và 
kiểm soát co giật 
Dùng benzodiazepine, phenytoin, sodium 
valproate, propofol hoặc một thuốc nhóm barbiturate. 
Các thuốc này đều có thể gây tụt huyết áp, do đó phải 
theo dõi sát khi bắt đầu dùng. 
Kiểm soát 
tăng đường huyết 
Dùng insulin truyền tĩnh mạch kết hợp với theo 
dõi đường huyết thường xuyên. Mức đường huyết cần 
đạt khoảng 8 mmol/l (144 mg/dl). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 18_1.pdf 18_1.pdf