Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 49
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT LÁCH VỚI DAO ĐIỆN 
ĐƠN CỰC ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH LÝ CÓ CHỈ ĐỊNH CẮT LÁCH Ở TRẺ EM 
Phạm Văn Phú*, Hàn Cảnh Định*, Phan Xuân Cảnh*, Võ Xuân Thành*, 
Nguyễn Văn Phiên*, Lê Bá Thao*, Bùi Thiên Thịnh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Trình bày kết quả sớm phẫu thuật nội soi cắt lách với dao điện đơn cực điều trị các bệnh lý có chỉ 
định cắt lách ở trẻ em. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả các trường hợp lách lớn bệnh lý có chỉ định cắt lách ở trẻ em. 
Phẫu thuật nội soi được tiến hành với tư thế treo lách, dùng 3 trocar: rốn 10 mm dùng đặt đèn soi và lấy lách sau 
cắt, hố chậu trái 10 mm để dùng haemolock nếu có và sau mổ để đặt dẫn lưu hố lách, thượng vị 5 mm. Lách sau 
khi giải phóng toàn bộ, được cho vào túi dùng kéo lớn đưa qua lỗ trocar 10 mm ở hố chậu trái để cắt nhỏ trong túi 
chứa và sau đó được lấy dần qua lỗ trocar rốn. Đặt dẫn lưu hố lách qua lỗ trocar 10 mm ở hố chậu trái. 
Kết quả: Từ tháng 10/2008 đến tháng 10/2014 có 8 trường hợp được được phẫu thuật, 5 nam; tuổi từ 5- 15. 
Tất cả các trường hợp đều có kết quả tốt, xuất viện sau 5 ngày, không có tai biến và biến chứng, theo dõi đến 1 
tháng sau mổ đều ổn định. 
Kết luận: Cắt lách nội soi với dao điện đơn cực ở trẻ em có tính khả thi cao, tuy nhiên số liệu còn ít nên cần 
nghiên cứu thêm nữa. 
Từ khóa: Nội soi cắt lách. 
ABSTRACT 
THE THE SOON RESULTS OF LAPAROSCOPIC SPLENECTOMY WITH UNIPOLAR KNIFE FOR 
DISEASES OF INDICATED SPLENECTOMY IN CHILDREN 
Pham Van Phu, Han Canh Định, Phan Xuan Canh, Vo Xuan Thanh, Nguyen Van Phien, Le Ba Thao, 
Bui Thien Thinh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 5 - 2015: 49 - 55 
Objective: To present the soon results of laparoscopic splenectomy with unipolar knife for diseases of 
splenomegaly in children. 
Method: Prospective, descriptive. The patients were applied laparoscopic splenectomy with unipolar knife. 
Results: From Octorber, 2008- Octorber, 2014, there were 8 cases, age: 5 – 15 years old, endergoing 
laparoscopic splenectomy. The soon results were good, no complication, postoperative followed up 4 weeks were 
stable. 
Conclusions: Laparoscopic splenectomy in children may be carried out safe and feasible in provincial 
hospitals. 
Key words: Laparoscopic splenectomy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật nội soi cắt lách- là phẫu thuật cắt 
bỏ lách to bệnh lý hoàn toàn bằng đường nội soi- 
được Delaitre ở Paris thực hiện lần đầu tiên năm 
1991và sau đó được chấp nhận là tiêu chuẩn 
vàng trong phẫu thuật cắt lách nhờ các ưu điểm 
như phẫu thuật ít xâm lấn, thẩm mỹ, bệnh nhân 
hồi phục nhanh chóng, ít đau sau mổ và các ưu 
*Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định. 
Tác giả liên hệ: BS. Phạm Văn Phú, ĐT: 0914004337, Email: 
[email protected]. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 50
điểm này càng có ý nghĩa hơn với các bệnh nhân 
nhi(1,7,11,12). 
 Nhờ các tiến bộ về máy móc trang thiết bị 
dụng cụ phục vụ mổ nội soi như dao cắt siêu âm, 
dao hàn mạch, Ligasure, các clip cặp mạch máu, 
bàn tay hỗ trợ việc cắt lách bằng phẫu thuật nội 
soi sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi giải phóng các 
mạch máu và hiện đã được ứng dụng rộng rãi ở 
các trung tâm lớn trên thế giới cũng như ở Việt 
Nam, tuy nhiên các dụng cụ này rất đắt 
tiền(7,9,10,8). 
Tại một số bệnh viện tuyến tỉnh với những 
dàn máy nội soi trang bị tối thiểu với dao điện 
đơn cực thì việc xử lý các mạch máu cuống lách 
có đảm bảo không, sau khi cắt lách việc lấy lách 
ra ngoài như thế nào để đạt yếu tố thẩm mỹ ? 
Nói chung là tại các bệnh viện chỉ trang bị dàn 
máy mổ nội soi với trang bị tối thiểu thì việc cắt 
lách nội soi có khả thi không ? 
Từ năm 2008 khoa Ngoại Tổng hợp Bệnh 
viện đa khoa tỉnh Bình Định bắt đầu triển khai 
ứng dụng cắt lách nội soi với dao điện đơn cực. 
Đề tài nhằm báo cáo kết quả sớm cắt lách bằng 
phẫu thuật nội soi điều trị các bệnh lý có chỉ định 
cắt lách ở trẻ em. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật nội soi cắt 
lách với dao điện đơn cực điều trị các bệnh lý có 
chỉ định cắt lách ở trẻ em. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhi được phẫu thuật nội soi cắt 
lách với dao điện đơn cực. 
Các bệnh nhi lách lớn bệnh lý có chỉ định cắt 
lách. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các bệnh nhi không đủ điều kiện gây mê nội 
khí quản, không đủ điều kiện để tiến hành phẫu 
thuật nội soi. 
Các bệnh nhi có lách lớn khổng lồ với đường 
kính lách lớn nhất > 20 cm. 
Địa điểm 
Khoa Ngoại Tổng hợp, Bệnh viện đa khoa 
tỉnh Bình Định. 
Thời gian 
Tháng 10 năm 2008 đến tháng 10 năm 2014. 
Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu, mô tả. 
Các bước tiến hành 
Hội chẩn với các bác sỹ Nhi khoa và Huyết 
học với các trường hợp bệnh nhi lách lớn bệnh lý 
và có chỉ định cắt lách. 
Chuẩn bị các xét nghiệm tiền phẫu thường 
qui, lên lịch mổ phiên. 
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm 
nghiêng phải khoảng 600. Đặt trocar rốn cho đèn 
soi và 2 trocar thao tác dưới bờ sườn trái (5 mm) 
và hố chậu trái (10 mm) để có thể dùng Clip hoặc 
Hemolock và sau mổ được dùng để đặt ống dẫn 
lưu hố lách. 
Sau khi bơm hơi, thăm dò ổ bụng và gỡ dính 
nếu có để tiếp cận cực dưới lách, dùng dao điện 
đơn cực cắt dây chằng lách đại tràng, hoành đại 
tràng, hạ đại tràng góc lách, mở túi cùng hậu 
cung mạc nối đồng thời với cắt mạch vị mạc nối 
để vào hậu cung mạc nối. Cắt dây chằng vị lách 
cùng các động mạch vị ngắn từ cực dưới lên cực 
trên lách, thấy rõ đuôi tụy và cuống lách, mở 
phúc mạc thành sau bộc lộ động mạch và tĩnh 
mạch lách. Đưa lách sang phải, cắt dây chằng 
lách – thận, hoành - lách từ dưới lên trên, lách 
chỉ còn liên quan đến đuôi tụy. Phẫu tích cuống 
lách, xử lý động mạch và tĩnh mạch lách bằng 
buộc chỉ hoặc Hemolock, trong quá trình phẫu 
tích lách tùy theo vị trí phẫu tích mà có thể tạo 
thêm thuận lợi bằng cách sử dụng linh hoạt các 
tư thế của bàn mổ để hỗ trợ thêm như nâng cao 
đầu, nghiêng thêm sang phải. Bệnh phẩm được 
cho vào túi nilon, dùng kéo lớn đưa vào ổ bụng 
qua lỗ trocar 10 mm ở hố chậu trái cắt lách trong 
túi thành các mảnh nhỏ, hút hết máu. Dẫn lưu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 51
hố lách bằng ống chất dẻo qua lỗ trocar 10 mm ở 
hố chậu trái. Bơm rửa hút sạch dịch trong ổ bụng 
và đưa túi đựng lách ra lỗ trocar rốn đã được 
banh rộng, dùng pince cặp bóp nát các mẫu lách 
và lấy dần ra ngoài qua lỗ trocar rốn. 
Sau mổ: Theo dõi các biến chứng, sử dụng 
kháng sinh, chăm sóc vết mổ, rút dẫn lưu ổ bụng 
khi khô dịch. 
Đánh giá kết quả 
Dựa vào tình trạng bệnh nhân trong và sau 
mổ, các tai biến và biến chứng, kết quả sau mổ. 
KẾT QUẢ 
 Từ tháng 10/ 2008 – 10/2014 tại khoa Ngoại 
Tổng hợp Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định có 8 
bệnh nhân cắt lách nội soi được mổ cùng một 
nhóm phẫu thuật viên, trong đó Nam: 5, nữ: 3; 
Tuổi: từ 5 – 15, thường gặp nhất: 8 tuổi. 
Bảng1: Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: 
Tuổi Giới Lâm sàng Chẩn đoán hình ảnh Xét nghiệm 
5 nam 
Lách lớn, giảm tiểu cầu, 
hội chứng giả Cushing 
Siêu âm, Giảm tiểu cầu 
7 nam Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, Huyết đồ, tủy đồ giảm 3 dòng 
8 nam Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, Thiếu máu 
14 nữ Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, CT-scanner Thiếu máu 
10 nam Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, Thiếu máu, Thalassemie 
8 nữ Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, CT-scanner Huyết đồ, tủy đồ giảm 3 dòng 
15 nam Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, CT-scanner Huyết đồ, tủy đồ giảm 3 dòng 
8 nữ Lách lớn, thiếu máu Siêu âm, CT-scanner Huyết đồ, tủy đồ giảm 3 dòng 
Nhận xét: Tất cả bệnh nhân đều có tình trạng 
thiếu máu và lách lớn ở các mức độ khác nhau. 
Bảng 2: Chẩn đoán. 
Chẩn đoán trước mổ Số lượng Tỉ lệ % 
Giảm tiểu cầu vô căn 1 12,5 
Cường lách 4 50,0 
Thalassemie 3 37,5 
Bảng3: Đặc điểm bệnh học, thời gian mổ, kết quả: 
Lách 
lớn độ 
Thời 
gian 
mổ( 
phút) 
Rút ống 
dẫn lưu 
sau mổ 
(ngày) 
Số 
trocar 
Nằm viện 
sau mổ 
(ngày) 
Kết quả 
II 100 3 3 5 Tốt 
III 120 3 3 5 Tốt 
IV 120 3 3 5 Tốt 
IV 150 3 3 5 Tốt 
III 120 3 3 5 Tốt 
IV 120 3 3 5 Tốt 
IV 150 3 3 5 Tốt 
IV 120 3 3 5 Tốt 
Nhận xét: Đa số trường hợp là lách lớn độ III, 
IV. 
Tất cả các lách sau khi cắt xong được cho vào 
túi cắt dùng kéo lớn đưa qua lỗ trocar 10 mm ở 
hố chậu trái cắt thành mảnh, bóp nát và lấy qua 
lỗ trocar rốn. 
Tất cả các trường hợp đều được đặt dẫn lưu 
hố lách qua lỗ trocar 10 mm ở hố chậu trái. 
Kết quả hình ảnh vi thể : các mẫu lách đều có 
hình ảnh cường lách. 
Không có tử vong, trong và sau mổ không có 
tai biến, biến chứng. 
Tất cả các bệnh nhi theo dõi trong 1 tháng 
sau mổ đều ổn định có xét nghiệm công thức 
máu trong giới hạn bình thường không có chỉ 
định truyền máu. 
BÀN LUẬN 
Chỉ định phẫu thuật cắt lách nội soi do bệnh 
lý huyết học như xuất huyết giảm tiểu cầu huyết 
khối, giảm tiểu cầu tự miễn trong đó chủ yếu là 
xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, cường lách, 
thiếu máu huyết tán , hiện nay đã có nhiều tác 
giả cắt lách nội soi trong các trường hợp bệnh lý 
ác tính tuy nhiên vẫn còn nhiều bàn cãi, chúng 
tôi không trường hợp nào có bệnh máu ác tính. 
Các bệnh nhân vào viện vì thiếu máu, lách lớn 
và tiền sử có truyền máu ít nhất là 1 lần. Có 1 
bệnh nhân xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn đã 
được điều trị corticoide lâu ngày gây hội chứng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 52
giả Cushing, còn lại là bệnh nhân cường lách và 
Thalassemie. 
Về kích thước lách các bệnh nhân của chúng 
tôi đa số là lách lớn độ IV, chỉ có 1 trường hợp 
lách lớn độ II. Từ 2007 đến 2009, Nguyễn thanh 
Liêm cắt lách nội soi cho 14 bệnh nhi xuất huyết 
giảm tiểu cầu, hồng cầu nhỏ hình cầu, thiếu máu 
tự miễn, Nguyễn Hoàng Bắc cắt lách cho các 
bệnh nhân xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn cho 
kết quả sau mổ rất tốt(7,9). 
Theo Habermalz cắt lách nội soi được chỉ 
định cho các lách lớn (lách có d ≤ 15 cm), với lách 
khổng lồ (d > 20 cm) thì nên phẫu thuật nội soi 
với bàn tay hỗ trợ. Với các trường hợp tăng áp 
cửa do xơ gan cần cân nhắc cắt lách nội soi như 1 
chống chỉ định. 
Về kỹ thuật 
Chúng tôi đặt tư thế bệnh nhân nằm 
nghiêng phải khoảng 600, vào ổ bụng bằng 3 
trocar, rốn cho đèn soi, hố chậu trái 10 mm để 
có thể dùng clip hoặc hemolock. Phẫu tích 
thường bắt đầu ở cực dưới, cực trên, vào hậu 
cung mạc nối xử lý động mạch lách rồi tĩnh 
mạch lách. Trong quá trình phẫu tích lách 
thường chúng tôi thay đổi thêm tư thế bàn mổ 
để tạo được phẫu trường tối ưu. 
Habermalz với tư thế nằm ngửa có thể dễ 
dàng đi vào hậu cung mạc nối để đến cuống lách 
nhưng sẽ khó khăn khi cắt các dây chằng lách 
cũng như xử lý các mạch máu ở mặt lưng và sau 
lách. Với tư thế nằm nghiêng hay “ kỹ thuật treo 
lách” của Delaitre việc cắt các dây chằng lách sẽ 
thuận lợi hơn, cũng có thể nghiêng hẳn 900 sẽ dễ 
phẫu tích cuống lách hơn, kiểm soát tốt đuôi tụy 
nên thời gian mổ sẽ rút ngắn và có thể áp dụng 
cho lách khổng lồ(1,4). Thời gian mổ trung bình 
của chúng tôi là 125 phút (100- 150 phút), 
Nguyễn Hoàng Bắc 90 phút (50-140 phút), 
Nguyễn Tấn Cường 186 phút, Nguyễn Thanh 
Liêm 100 phút cho thấy việc phẫu thuật nội soi 
cắt lách với dao điện đơn cực tuy thời gian mổ có 
dài hơn so với Nguyễn Thanh Liêm và Nguyễn 
Hoàng Bắc nhưng không đáng kể(7,8,9). 
Ji so sánh việc phẫu tích lách đường trước và 
đường sau bên tác giả thấy rằng đường sau bên 
hiệu quả và an toàn hơn đường trước với các 
lách có d < 30 cm(4). 
Machado sử dụng dụng cụ bộc lộ rốn lách 
theo 3 góc làm tăng độ an toàn khi xử lý cuống 
lách nhất là khi đuôi tụy dính chặc vào các mạch 
máu rốn lách(6). 
Hiện nay các tuyến tỉnh chủ yếu là sử dụng 
dao điện đơn cực, loại dao này có các hạn chế 
như : Các máy phát điện tiếp đất có thể gây ra 
những tổn thương tại chỗ kế tiếp nhau thường ở 
những vùng như tay hoặc chân. Nguyên nhân là 
do dòng điện luôn tìm kiếm con đường để trở về 
đất, nên bất cứ vật kim loại nào tiếp xúc ngẫu 
nhiên với bệnh nhân, như là cái giá kim loại để 
treo dịch truyền hoặc để đựng monitor theo dõi 
bệnh nhân, bàn mổ có thể xem như là 1 điện cực 
hấp dẫn dòng điện và làm trệch hướng trở về 
của dòng điện. Dòng điện này sẽ tập trung và 
làm bỏng bệnh nhân tại chỗ nơi mà dòng điện 
tiếp xúc với vật kim loại để cố gắng thoát ra khỏi 
cơ thể. Do đó, xảy ra hiện tượng phẫu thuật viên 
đang dùng dao mổ điện ở vùng bụng mà bệnh 
nhân bị cháy bỏng điện ở tay hoặc chân và các 
dao này vẫn thường được sử dụng ở các bệnh 
viện tuyến huyện, tỉnh. Phẫu thuật nội soi dùng 
dao mổ đơn cực có thể làm tăng thêm các nguy 
cơ như: tiếp xúc trực tiếp: điều này có thể dẫn 
đến tổn thương nghiêm trọng trên bệnh nhân 
mà không lường trước được. Phẫu thuật viên cố 
ý tạo tiếp xúc trực tiếp: chạm đầu dao điện đang 
hoạt động vào dụng cụ khác để cầm mạch máu 
nhỏ hay chỗ đang chảy máu hoặc đôi khi phẫu 
thuật viên vô ý chạm đầu dao điện đang hoạt 
động vào dụng cụ khác ở ngoài phẫu trường; 
tiếp xúc điện dung: xảy ra khi 2 vật dẫn điện 
được tách riêng bởi 1 lớp cách điện nếu lớp cách 
điện trên dụng cụ nội soi bị tróc, chỗ bị tróc lớp 
cách điện càng nhỏ, dòng điện tập trung càng 
cao, gây ra tổn thương càng nghiêm trọng hoặc 
nguy cơ cháy nổ trong phòng mổ, cháy bỏng tại 
chỗ: khi sử dụng hệ thống máy phát tiếp đất. Khi 
điện cực thu hồi tiếp xúc không tốt với cơ thể 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 53
bệnh nhân cháy bỏng có thể xảy ra tại chỗ điện 
cực thu hồi. Các máy hiện nay đều có hệ thống 
theo dõi để bảo đảm sự tiếp xúc của điện cực thu 
hồi với bệnh nhân. 
Dao điện chúng tôi sử dụng trong mổ là đơn 
cực thường sẽ có nhiều nguy cơ hơn khi mổ so 
với các loại dao khác như dao siêu âm, hàn 
mạch, ligasure do đó thời gian mổ sẽ lâu hơn, 
việc lắp đặt thiết bị cần tuân thủ chặt chẽ theo 
quy trình hướng dẫn tránh xảy ra tai biến về 
điện, khi phẫu tích chúng tôi phải đi từng mẫu 
nhỏ, cầm máu kỹ, các mạch máu khoảng 2 mm 
trở lên phải buộc chỉ, hạn chế kẹp clip kim loại vì 
có thể chạm điện khi bóc tách tiếp hoặc bị tuộc. 
Kết quả là tất cả các trường hợp của chúng tội 
đều có kết quả tốt, không có tai biến, biến chứng 
trong và sau mổ. 
Nếu sử dụng dao siêu âm, staper mạch nội 
soi, stapler GIA sẽ kiểm soát mạch tốt hơn, 
giảm mất máu và mổ nhanh hơn. Dao hàn 
mạch, ligasure, dao siêu âm sử dụng rất tốt 
cho các mạch đến 7mm nên rất an toàn, giảm 
thời gian mổ. 
Esposito so sánh mổ mở cắt lách với mổ nội 
soi cho thấy thời gian mổ nội soi lâu hơn (170 
phút so với 100 phút), ngày nằm viện ngắn hơn. 
Hasan cắt lách nội soi giảm nhiễm khuẩn vết mổ, 
áp xe dưới hoành, nhiễm khuẩn phổi, giảm thời 
gian điều trị phục hồi nhanh hơn(2). 
Theo Lee, Nguyễn Tấn Cường với những 
phẫu thuật viên chưa có kinh nghiệm hoặc lách 
lớn khổng lồ nên triển khai cắt lách nội soi với 
bàn tay trợ giúp trước sau đó mới triển khai cắt 
lách hoàn toàn bằng nội soi. Các trường hợp 
chúng tôi đều phẫu thuật thành công khi sử 
dụng 3 trocar, 2 trocar 10 mm ở rốn và hông trái, 
1 trocar 5 mm ở dưới sườn trái nhờ áp dụng kỹ 
thuật treo lách và llinh hoạt thay đổi tư thế bàn 
mổ để tạo khoang phẫu trường thuận lợi. Theo 
Hasan đa số tác giả sử dụng 5 trocar, Park dùng 
4 trocar(2). 
Để lấy lách ra ngoài thường là cho vào túi cắt 
nhỏ, bóp nát và lấy qua lỗ trocar rốn như chúng 
tôi và đa số tác giả hoặc có thể lấy lách qua 
đường rạch Pfannenstiel hoặc dùng dao siêu âm 
hoặc dùng Morcellator để nghiền lách(9). 
Các biến chứng cắt lách nội soi 
Trong 8 trường hợp cắt lách nội soi chúng 
tôi chưa gặp tai biến, biến chứng nào vì chúng 
tôi phẫu tích từng ít một, tạo phẫu trường thật 
tốt, cầm máu kỹ. 
Thời gian nằm viện sau mổ của chúng tôi có 
dài hơn các tác giả khác vì chúng tôi muốn sử 
dụng kháng sinh sau mổ đủ 5 ngày nhằm tránh 
các nguy cơ nhiễm khuẩn do suy giảm miễn dịch 
sau cắt lách. 
Theo nghiên cứu của Targarona tỉ lệ chuyển 
mổ mở 7,4%, biến chứng 18%. Các biến chứng 
hay gặp như thoát vị lỗ trocar, thủng tạng, viêm 
tụy, rò tụy, tắc ruột, viêm phổi, huyết khối, sót 
lách phụ, chảy máu ổ bụng, chảy máu lỗ trocar, 
nhiễm khuẩn(14). Nguyễn Thanh Liêm có 2/12 
trường hợp chuyển mổ mở do chảy máu, 
Nguyễn Hoàng Bắc có 7/18 trường hợp chảy 
máu được xử lý thành công bằng cách thêm 
trocar cột chỉ, dùng stapler(7). Phần lớn các biến 
chứng này theo chúng tôi có thể tránh được nếu 
kiểm tra bệnh nhân trước mổ kỹ, toàn diện, 
trong mổ cần bộc lộ rõ ràng, phẫu tích cẩn thận 
và không ngần ngại chuyển mổ mở nếu thấy 
cuộc mổ không thuận lợi. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt lách bệnh lý với dao 
điện đơn cực được tiến hành trên 8 bệnh nhi đạt 
kết quả tốt. Điều này cho thấy cắt lách nội soi ở 
trẻ em có thể được tiến hành với 3 trocar với kỹ 
thuật treo lách và linh hoạt thay đổi tư thế bàn 
mổ để tạo phẫu trường thuận lợi. Khi sử dụng 
dao điện đơn cực cần luôn tuân thủ quy trình để 
đảm bảo an toàn về điện, việc cầm máu cần 
chính xác, chắc chắn, kết hợp với buộc chỉ và có 
thể sử dụng thêm hemolock để xử lý bó mạch 
lách. Lách sau khi cắt có thể qua lỗ trocar rốn 
bằng cách cắt nhỏ lách trong bao và lấy dần qua 
rốn. Kết quả này cũng chứng tỏ ở các tuyến tỉnh 
với dàn máy nội soi được trang bị tối thiểu phẫu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 54
thuật cắt lách nội soi có thể được tiến hành ở các 
bệnh nhi, tuy nhiên đề tài với số lượng bệnh 
nhân còn ít do đó cần có nghiên cứu với số 
lượng nhiều hơn nữa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Habermalz B, Sauerland G, Decker B, et al (2008). 
Laparoscopic Splenectomy: The Clinical Guidelines of The 
European Association for Endoscopic Surgery. Surg Endosc. 
22,:pp.821-48. 
2. Hasan U, Sevgi B, Mehmet AB, et al (2013) Laparoscopic 
Splenectomy and Infection. J Microbiol Infect Dis. Vol. 3,No.1, 
March: pp.1-2. 
3. Hebra A, Walker JD, Tagge EP, et al (1998). A new technique 
for Laparoscopic Splenectomy with Massively Enlarged 
Spleens. The American Surgeon. Dec. Vol. 64: pp.1161-64. 
4. Ji B, Wang Y, Zhang P, et al (2013). Anterior Versus 
Posterolateral Approach for Total Laparoscopic Splenectomy: 
A Comparative Study. Int J Med Sci. Vol. 10.:pp.222-229. 
5. Lee WF, Wu SC, Yong CC, et al (2010). Hand-assisted 
Laparoscopic Splenectomy – Preliminary Experience in 
Southern Taiwan. Chang Gung Med J 33; pp.67-72. 
6. Machado MAC, Makdissi FF, Herman P, et al (2004). 
Exposure of Splenic hilum Increases Safety of Laparoscopic 
Splenectomy. Surg Laparosc Endosc Percutan Tech. Vol.14, 
No.1, Feb; pp.23-5. 
7. Nguyễn Hoàng Bắc, Huỳnh Nghĩa, Lê Quan Anh Tuấn. 
(2003). Phẫu thuật nội soi cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu 
cầu. Y học TP Hồ Chí Minh. Tập 7. Số 1. . tr: 137-41. 
8. Nguyễn Ngọc Hùng, Quách Văn kiên, Nguyễn Văn Trường 
(2008). Cắt lách nội soi: Một số nhận xét về chỉ định, kỹ thuật 
và biến chứng. Y học TP Hồ Chí Minh. Tập 12. Phụ bản số 4. 
tr: 137-41. 
9. Nguyễn Tấn Cường, Bùi An Thọ, Đoàn Tiến Mỹ, Đỗ Hữu Liệt 
(2007). Phẫu thuật nội soi cắt lách có bàn tay hỗ trợ: Một số kết 
quả bước đầu. Y học TP Hồ Chí Minh. Tập 11. Số 1. 
10. Nguyễn Thanh Liêm (2009). Kết quả bước đầu ứng dụng 
phẫu thuật nội soi cắt lách điều trị một số bệnh máu ở trẻ em. 
Hội nghi Khoa học nhi Việt nam lần thứ VII và Hội nghị 
Ngoại Nhi các nước Đông Nam Á lần thứ IV.. 
www.nhp.org.vn/Show.aspx?cat=045&nid=552 
11. Rescorla FJ (2005). Laparoscopic Splenectomy. In: Pediatric 
Minimal Access Surgery. Langer JC, Albanese CT Eds.: 
pp.137-50. 
12. Rescorla FJ (2008). Laparoscopic Splenectomy. In: Atlas of 
Pediatric Laparoscopiy and Thoracoscopy. Holcomb III G.W, 
Georgeson K.E. Eds.: pp.121-6. 
13. Selim S, Mehmet A, Sabri O et al. (2012). Laparoscopic 
Splenectomy for splenic Cyst Hydatic. Eur J Gen Med 9(suppl 
1).;pp.33-5. 
14. Targarona EM, Espert JJ, Bombuy E, et al. (2000). 
Complications of Laparoscopic Splenectomy. Arch Surg. 
135(10). pp 1137-40. 
15. Whitman ED, Brunt LM (2003). Laparoscopic splenectomy. In: 
Laparoscopic Surgery of the Abdomen. Bruce Mac Fadyen 
eds.. pp:238-54. 
16. Zafar H, Hameed A, Pardhan A, et al. (2012). Laparoscopic 
splenectomy for hematological disorder: our experience. J Pak 
Med Assoc. Vol. 62, No. 10, Octorber. pp. 1096-99. 
Ngày nhận bài báo: 18/08/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/08/2015 
Ngày bài báo được đăng: 01/10/2015