Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm dịch tễ, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh viêm loét giác mạc do nấm và vi
khuẩn.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả. Nghiên cứu được tiến hành trên 300 bệnh nhân được chẩn
đoán viêm loét giác mạc do nấm và vi khuẩn đến khám và điều trị tại khoa Giác mạc Bệnh viện Mắt thành phố Hồ
Chí Minh từ 6/2012 đến 4/2013. Bệnh nhân được khai thác tiền sử, bệnh sử, các yếu tố nguy cơ. Bác sĩ nhãn khoa
khám mắt, lấy bệnh phẩm và thu thập kết quả xét nghiệm.
Kết quả: Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ, chủ yếu là nông dân (58,7%). Yếu tố nguy cơ hàng đầu là chấn
thương (31%), trong đó 51,6% là chấn thương nông nghiệp. Đa số bệnh nhân nhiễm nấm đơn thuần (60,3%),
nhiễm vi khuẩn đơn thuần chiếm 16,7%, nhiễm hỗn hợp nấm và vi khuẩn chiếm 23%. Có 21,3% bệnh nhân dọa
thủng và thủng giác mạc, thị lực ra viện dưới ĐNT 3m chiếm 52,3%. Kết quả nuôi cấy chủ yếu là vi khuẩn
Staphylococci coagulase (-) kháng Methicillin (37%) và Pseudomonas aeruginosa (32%). Kết quả soi tươi chủ yếu
là nấm sợi (65%)
              
            Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 46
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG 
BỆNH VIÊM LOÉT GIÁC MẠC DO NẤM VÀ VI KHUẨN 
Trần Anh Tuấn*, Nguyễn Thị Quỳnh Như* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm dịch tễ, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh viêm loét giác mạc do nấm và vi 
khuẩn. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả. Nghiên cứu được tiến hành trên 300 bệnh nhân được chẩn 
đoán viêm loét giác mạc do nấm và vi khuẩn đến khám và điều trị tại khoa Giác mạc Bệnh viện Mắt thành phố Hồ 
Chí Minh từ 6/2012 đến 4/2013. Bệnh nhân được khai thác tiền sử, bệnh sử, các yếu tố nguy cơ. Bác sĩ nhãn khoa 
khám mắt, lấy bệnh phẩm và thu thập kết quả xét nghiệm. 
Kết quả: Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ, chủ yếu là nông dân (58,7%). Yếu tố nguy cơ hàng đầu là chấn 
thương (31%), trong đó 51,6% là chấn thương nông nghiệp. Đa số bệnh nhân nhiễm nấm đơn thuần (60,3%), 
nhiễm vi khuẩn đơn thuần chiếm 16,7%, nhiễm hỗn hợp nấm và vi khuẩn chiếm 23%. Có 21,3% bệnh nhân dọa 
thủng và thủng giác mạc, thị lực ra viện dưới ĐNT 3m chiếm 52,3%. Kết quả nuôi cấy chủ yếu là vi khuẩn 
Staphylococci coagulase (-) kháng Methicillin (37%) và Pseudomonas aeruginosa (32%). Kết quả soi tươi chủ yếu 
là nấm sợi (65%). 
Kết luận: Viêm loét giác mạc liên quan đến yếu tố chấn thương chiếm tỷ lệ cao, thị lực ở mức mù vẫn chiếm 
ưu thế. Tác nhân gây bệnh là nấm chiếm ưu thế hơn vi khuẩn. 
Từ khóa: viêm loét giác mạc, nấm, vi khuẩn. 
ABSTRACT 
INVESTIGATE THE CLINICAL CHARACTERISTICS AND MICROBIOLOGICAL DIAGNOSIS 
 OF BACTERIAL AND FUNGAL KERATITIS 
Tran Anh Tuan, Nguyen Thi Quynh Nhu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 46 - 51 
Purpose: To investigate the epidemiological, clinical characteristics, and microbiological profile of patients 
with bacterial and fungal keratitis. 
Methods: An observational prospective study was performed on 300 patients from June 2012 to April 2013 
in corneal department of Ho Chi Minh city Eye Hospital. Data collected the medical history of patients, risk 
factors, clinical features and causative microbial organisms. 
Results: Male disease than women, mostly farmers (58.7%). The most common risk factors are trauma 
(31%), of which 51.6% are agricultural injuries. The majority of patients with fungal infections alone (60.3%), 
bacterial infection alone accounted for 16.7%, mixed with 23%. There are 21.3% of patients of impending 
perforation and perforation of the cornea, vision discharged under 3m courting fingers accounted for 52.3%. 
Culture results mainly methicillin resistant coagulase-negative Staphylococci (37%) and Pseudomonas 
aeruginosa (32%). Smear result mainly filamentous fungi (65%). 
Conclusions: The common risk factors associated with microbial keratitis were ocular trauma, blind vision 
prevails. Fungal pathogens are predominant bacteria. 
* BV Mắt TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Quỳnh Như ĐT: 0905276290 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mắt 47
Keywords: corneal ulcer, fungi, bacteria. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay viêm loét giác mạc (nhiễm nấm và 
vi khuẩn) là bệnh mắt phổ biến ở các nước đang 
phát triển. Viêm loét giác mạc là một bệnh rất 
nguy hiểm, để lại những di chứng vĩnh viễn như 
sẹo giác mạc, teo nhãn, và làm mất một phần hay 
toàn bộ thị lực. 
Việt Nam là một nước nhiệt đới, khí hậu 
nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng 
giác mạc phát sinh và phát triển, cùng với ý thức 
người dân còn thấp, ý thức vệ sinh phòng bệnh 
chưa cao kèm theo bệnh toàn thân như đái tháo 
đường, cao huyết áp, và việc sử dụng corticoid 
tại chỗ không đúng chỉ định làm cho tình trạng 
viêm loét giác mạc càng trầm trọng hơn. 
Viêm loét giác mạc là một bệnh nặng, nâng 
cao công tác phòng bệnh sẽ hạn chế được 
nhiều trường hợp viêm loét giác mạc xảy ra. 
Mặt khác, việc phát hiện và điều trị sớm sẽ 
giúp giảm hay ngăn được biến chứng trầm 
trọng như thủng giác mạc, sẹo dày giác mạc và 
giúp cải thiện thị lực. 
Tại phòng khám Giác mạc – Bệnh viện Mắt 
TP. Hồ Chí Minh, hằng năm có rất nhiều bệnh 
nhân đến khám và điều trị viêm loét giác mạc. Vì 
vậy chúng tôi tiến hành đề tài nhằm có cái nhìn 
chung nhất về tình hình viêm loét giác mạc do 
nấm và vi khuẩn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành trên 300 bệnh 
nhân viêm loét giác mạc do nấm và vi khuẩn 
đến khám và điều trị tại khoa Giác mạc bệnh 
viện Mắt Tp. Hồ Chí Minh từ 6/2012 đến 4/2013. 
Bệnh nhân bị loại khỏi nghiên cứu: loét Mooren, 
loét do các bệnh tự miễn, loạn dưỡng giác mạc, 
giác mạc chóp. 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu, mô tả. 
Bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu sẽ được 
thu thập những thông tin về hành chính, tiền sử, 
bệnh sử. 
Bệnh nhân được đo thị lực, khám mắt toàn 
diện bằng sinh hiển vi, sau đó nhuộm giác mạc 
bằng Fluorescein để đánh giá chi tiết tình trạng ổ 
loét, đồng thời phát hiện bệnh lý khác tại mắt 
nếu có. 
Đánh giá mức độ tổn thương của viêm loét 
giác mạc được chia 3 mức độ (nhẹ, vừa và nặng) 
theo bảng phân độ của viện Mắt Trung Ương. 
Lấy mẫu bệnh phẩm và xét nghiệm vi 
sinh 
Bệnh phẩm được cố định bằng nước muối 
sinh lý trên lam kính để soi tươi tìm nấm, phần 
bệnh phẩm khác được cố định trên que tăm 
bông vô trùng để tiến hành nuôi cấy định danh 
vi khuẩn và làm kháng sinh đồ. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dịch tễ 
Trong số 300 bệnh nhân nghiên cứu 189 nam 
(63%) và 111 nữ (37%). Tuổi trung bình đến 
khám là 48,2 và phần lớn tập trung ở độ tuổi lao 
động 20 – 60 tuổi (74,7%). Nghề nghiệp chủ yếu 
là nông dân (58,7%), và hầu hết bệnh nhân đến 
từ ngoại thành (89%). 
Một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến bệnh 
viêm loét giác mạc do nấm và vi khuẩn, chiếm tỷ 
lệ cao nhất là chấn thương (31%), trong đó chủ 
yếu là chấn thương trong lao động nông nghiệp 
(51,6%), tác nhân gây chấn thương chủ yếu là 
thực vật và côn trùng (47,3%), chỉ có 1 trường 
hợp mang kính áp tròng. 
Số bệnh nhân tự xử trí tại nhà không theo 
hướng dẫn của bác sĩ mắt chiếm 13%, trong đó 
79,5% bệnh nhân tự mua thuốc nhỏ và uống 
không rõ loại, và 15,4% bệnh nhân sử dụng 
các biện pháp dân gian như đắp lá cây, các 
loại động vật lên mắt. Các loại thuốc bệnh 
nhân đã dùng trước khi đến khám tại bệnh 
viện Mắt Tp. Hồ Chí Minh, nhiều nhất là 
kháng sinh các loại (56,5%). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 48
Bảng 1. Các yếu tố nguy cơ. 
Các yếu tố nguy cơ Số lượng Tỷ lệ % 
Chấn thương 
(N = 93) 
Thực vật và côn trùng 44 47,3 
Bụi đất 27 29 
Hóa chất 8 8,6 
Kim loại 8 8,6 
Dụng cụ sinh hoạt 5 1,7 
Kính áp tròng 1 1,1 
Bệnh mắt phối 
hợp 
(N = 15) 
Quặm mi, lông xiêu 3 20 
Viêm bờ mi mãn tính 1 6,7 
Hở mi do liệt TK VII 11 73,3 
Bệnh toàn 
thân phối hợp 
(N = 15) 
Đái tháo đường 3 20 
Cao huyết áp 10 66,6 
AIDS 1 6,7 
ĐTĐ + CHA 1 6,7 
Đặc điểm lâm sàng 
Trong tổng số 300 mắt trên 300 bệnh nhân, 
mắt phải chiếm 48%, mắt trái chiếm 52% (p > 
0,05). Vậy chênh lệch hai mắt không đáng kể. 
Qua khám lâm sàng kết hợp với kết quả xét 
nghiệm vi sinh, chúng tôi nhận thấy đa số bệnh 
nhân viêm loét giác mạc do nấm (60,3%), do vi 
khuẩn chiếm 16,7%, do cả nấm và vi khuẩn 
chiếm 23%. 
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của ổ loét 
giác mạc do nấm và vi khuẩn thấy rằng đa số 
mức độ tổn thương vừa và nặng tập trung ở 
những bệnh nhân viêm loét giác mạc do nấm 
(41%), tiếp đến là viêm loét giác mạc do cả nấm 
và vi khuẩn (15%). Có 21,3% ổ loét dọa thủng và 
thủng, trong đó 52,4% ổ loét có vị trí thủng ở 
trung tâm giác mạc. Mủ tiền phòng xuất hiện 
trong 33% trường hợp. 
Sự khác biệt giữa thị lực lúc vào viện và ra 
viện có ý nghĩa thống kê (p <0,001). Như vậy có 
sự cải thiện thị lực sau điều trị, tỷ lệ bệnh nhân 
có thị lực trên7/10 tăng lên 8%, tỷ lệ bệnh nhân 
có thị lực dưới ĐNT 3m giảm còn 52,3%. 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
TL>7/10 7/10≥TL>3/10 3/10≥TL≥ĐNT 3m TL<ĐNT 3m
TL vào viện
TL ra viện
Biểu đồ 1. So sánh thị lực vào viện và ra viện. 
Đặc điểm cận lâm sàng 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả bệnh 
nhân đều được lấy mẫu bệnh phẩm làm xét 
nghiệm vi sinh: bao gồm soi tươi và nuôi cấy. 
Kết quả soi tươi 
Phát hiện được tác nhân gây bệnh trong 250 
trường hợp, trong đó nhiều nhất là nấm sợi 
(65%), nấm men chiếm 18,3%. 
Kết quả nuôi cấy 
Có 39,7% trường hợp nuôi cấy dương tính, 
tác nhân vi khuẩn Gram dương gặp nhiều hơn 
vi khuẩn Gram âm. Trong số vi khuẩn Gram 
dương, Staphylococci coagulase (-) kháng 
Methicillin chiếm số lượng nhiều nhất (37%), 
trong 4 ca nhiễm Staphylococcus aureus có 1 ca là 
MRSA (Methicillin Resistant Staphylococcus 
aureus). Trong số vi khuẩn Gram âm thì nhiều 
nhất là Pseudomonas aeruginosa (32%). 
Kháng sinh đồ 
Chúng tôi chỉ khảo sát tính kháng thuốc 
kháng sinh của một số loài vi khuẩn hay gặp 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mắt 49
trong quá trình nghiên cứu. Nhóm vi khuẩn 
Gram dương chủ yếu là Staphylococci coagulase (-) 
kháng Methicillin có tỷ lệ kháng kháng sinh: 
Cefotaxim kháng 100%, Amox+a.clavulanic và 
Ciprofloxacin ít kháng hơn (88,6% và 79,5%). 
Nhóm Streptococci còn nhạy với nhiều loại kháng 
sinh ngoại trừ Ciprofloxacin (kháng 100%). Vi 
khuẩn Pseudomonas aeruginosa kháng với 
Amox+a.clavulanic (94,7%), Chloramphenicol 
(100%) và khá nhạy với các loại còn lại. 
Bảng 2. Phân bố tỷ lệ tác nhân gây bệnh qua soi tươi và nuôi cấy 
Tác nhân gây bệnh Số lượng Tỷ lệ % 
Kết quả soi tươi (N = 300) 
Nấm men 55 18,3 
Nấm sợi 195 65 
Không tìm thấy tác nhân gây bệnh 50 16,7 
Kết quả nuôi cấy (N = 119) 
Vi khuẩn Gram (+) (N 
= 69) 
Staphylococcus aureus 4 3,4 
Staphylococci coagulase(-) 13 10,9 
Staphylococci coagulase(-) kháng Methicillin 44 37 
Streptococcus pneumoniae 1 0,8 
α – hemolytic streptococci 7 5,9 
Vi khuẩn Gram (-) 
(N = 50) 
Pseudomonas aeruginosa 38 32 
Pseudomonas oryzihabitans 1 0,8 
Enterobacteriaceae 6 5 
Các loại khác 5 4,2 
BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, đa 
phần bệnh nhân là nông dân và rất ít cán bộ 
công nhân viên, học sinh sinh viên. Có kết quả 
như vậy cũng phù hợp với cơ cấu ngành nghề 
của đất nước ta hiện nay, đồng thời cũng có thể 
do môi trường làm việc ngoài trời không được 
tốt và ý thức bảo vệ sức khỏe thấp của người 
nông dân. 
Viêm loét giác mạc nhiễm trùng hay xảy ra 
trên những mắt có yếu tố nguy cơ. Yếu tố nguy 
cơ hàng đầu trong nghiên cứu của chúng tôi là 
chấn thương nông nghiệp (51,6%). Một số 
nghiên cứu trong nước, ở Ấn Độ, Nepal trước 
đây cũng cho kết quả tương tự(1,2,8,10). Vì vậy việc 
tuyên truyền sử dụng kính bảo hộ trong lao 
động vẫn cần thực hiện để phòng tránh chấn 
thương xảy ra. Một số báo cáo gần đây trên thế 
giới về viêm loét giác mạc có đề cập đến kính 
tiếp xúc là yếu tố nguy cơ hàng đầu (tại Đài Loan 
44,3%, tại Úc 22%, tại Hong Kong 36%)(4,6,7). Tuy 
nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1 
bệnh nhân sử dụng kính tiếp xúc, nguyên nhân 
có thể do việc dùng kính tiếp xúc chưa phổ biến 
tại Việt Nam. 
Hơn nửa số bệnh nhân (59,7%) đã đi điều trị 
tại các trung tâm y tế tuyến dưới nơi có bác sĩ 
chuyên khoa mắt trước khi đến bệnh viện Mắt 
Tp. Hồ Chí Minh. Một phần nhỏ bệnh nhân còn 
lựa chọn các phương pháp điều trị dân gian như 
đắp lá cây (nha đam, đậu xanh), đắp côn trùng 
trực tiếp lên mắt. Nhìn chung, ý thức của người 
dân đã cải thiện nhiều so với những năm trước 
đây. Người dân đã biết quan tâm, chăm sóc đến 
sức khỏe của bản thân hơn. 
Về các loại thuốc bệnh nhân đã dùng thì có 
56,5% bệnh nhân dùng thuốc kháng sinh các 
loại, 9,3% bệnh nhân dùng thuốc kháng nấm, và 
11,1% dùng thuốc có corticoid (đây là loại thuốc 
chống chỉ định trong viêm loét giác mạc vì có thể 
gây nhiễm trùng nặng hơn và thủng giác mạc). 
Hiện nay, các loại thuốc kháng sinh khá phổ biến 
và có hiệu quả điều trị cao nên dễ bị lạm dụng, 
thuốc kháng nấm lại không phổ biến ở tuyến 
dưới. Ngoài ra, xét nghiệm vi sinh chưa được 
triển khai ở nhiều cơ sở y tế. Vì vậy, việc bệnh 
nhân được chẩn đoán sớm và điều trị chính xác 
vẫn còn bị hạn chế. 
Về đặc điểm lâm sàng, chúng tôi thấy rằng 
đa số bệnh nhân đến khám đều có thị lực thấp 
và mức độ tổn thương đã nặng, tập trung ở 
những bệnh nhân viêm loét giác mạc do nấm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 50
21,3% ổ loét dọa thủng và thủng và 52,4% ổ 
loét có vị trí thủng ở trung tâm giác mạc. Triệu 
chứng mủ tiền phòng xuất hiện chủ yếu trong 
những trường hợp viêm loét giác mạc do nấm. 
Mức độ mủ tiền phòng phụ thuộc vào mức độ 
viêm loét giác mạc. Theo chúng tôi, bệnh nhân 
có những triệu chứng trên ngoài điều trị nội 
khoa cần phải kết hợp thêm điều trị ngoại 
khoa như rửa mủ tiền phòng, ghép màng ối 
hoặc dán keo sinh học thì kết quả điều trị mới 
tốt hơn. Hầu hết thị lực lúc vào viện ở mức mù 
chiếm 71,3%. So với thị lực vào viện thì thị lực 
ra viện có cải thiện hơn, nhưng thị lực dưới 
ĐNT 3m vẫn chiếm đa số. Nhiều nghiên cứu 
đã cùng khẳng định rằng viêm loét giác mạc là 
một trong những nguyên nhân gây giảm thị 
lực và mù phổ biến không riêng ở Việt Nam 
mà còn trên thế giới(3,5,9,10). 
Theo kết quả soi tươi, nấm sợi là tác nhân 
gây bệnh gặp phổ biến nhất (65%). Sự hiện diện 
của nấm trong soi tươi có giá trị rất cao. 
Kết quả nuôi cấy âm tính khá cao (60,3%). 
Theo chúng tôi, việc kháng sinh phổ rộng hiệu 
quả cao hiện nay khá phổ biến và bệnh nhân 
có thể dùng thuốc trước khi đến khám, điều 
này có thể ảnh hưởng đến kết quả nuôi cấy vi 
khuẩn. Kết quả nuôi cấy dương tính thu thập 
được đa số là nhóm cầu khuẩn Gram (+), trong 
đó nhiều nhất là Staphylococci coagulase (-) 
kháng Methicillin (37%). Mặc dù nhóm vi 
khuẩn này bình thường cũng trú tại cùng đồ 
và da, nhưng với tỷ lệ phân lập được cao như 
vậy cho thấy nhóm vi khuẩn này phải được 
xem là tác nhân gây bệnh chứ không chỉ là 
ngoại nhiễm. Nhóm vi khuẩn Gram (-), nhiều 
nhất là trực khuẩn mủ xanh. 
Kháng sinh đồ, chúng tôi chỉ khảo sát một số 
vi khuẩn thường gặp trong nghiên cứu. 
Staphylococci coagulase (-) kháng methicillin 
kháng với Cefotaxim, Amox+a.clavulanic và 
Ciprofloxacin, Pseudomonas aeruginosa kháng với 
Amox+a.clavulanic và Chloramphenicol. Đa số 
nhạy với các kháng sinh còn lại. Như vậy, kháng 
sinh nhỏ tại chỗ dạng có sẵn trên thị trường còn 
khá nhạy với các chủng vi khuẩn phân lập được. 
KẾT LUẬN 
Đặc điểm dịch tễ: tỷ lệ mắc bệnh ở nam 
nhiều hơn nữ, chủ yếu là nông dân. Yếu tố nguy 
cơ hàng đầu đối với viêm loét giác mạc do nấm 
và vi khuẩn là chấn thương (31%), trong đó chủ 
yếu là chấn thương nông nghiệp. Hơn nửa số 
bệnh nhân có điều trị tại tuyến dưới trước khi 
đến khám và điều trị tại Bệnh viện Mắt Tp. Hồ 
Chí Minh. 
Đặc điểm lâm sàng: Viêm loét giác mạc 
nhiễm nấm chiếm tỷ lệ cao hơn viêm loét giác 
mạc nhiễm vi khuẩn. Mức độ tổn thương và 
các triệu chứng của viêm loét giác mạc do nấm 
nặng hơn các trường hợp viêm loét giác mạc 
do vi khuẩn. Thị lực dưới ĐNT 3m vẫn chiếm 
tỷ lệ cao. 
Đặc điểm cận lâm sàng: nấm hay gặp nhất là 
nấm sợi (65%), vi khuẩn hay gặp nhất là 
Staphylococci coagulase (-) kháng Methicillin và 
Pseudomonas aeruginosa. Kháng sinh đồ của các 
chủng vi khuẩn cho thấy vẫn còn khá nhạy với 
các loại kháng sinh có sẵn trên thị trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chien - Fan FM, Chia - Hui TsM, Fung - Rong HM, et al 
(2004). "Clinical characteristics of microbial keratitis in a 
university hospital in Taiwan". American Journal of 
Ophthalmology, 137(2): 329 – 336. 
2. Gopinathan U, Sharma S, Garg P, et al (2009). "Review of 
epidemiological features, microbiological diagnosis and 
treatment outcome of microbial keratitis: Experience of over a 
decade". Indian J Ophthalmol, 57: 273 – 279. 
3. Green M, Apel A, Stapleton F (2008). "Risk Factors and 
Causative Organisms in Microbial Keratitis". Cornea, 27(1): 22 
– 27. 
4. Houang E, Lam D, Fan D, et al (2001). "Microbial keratitis in 
Hong Kong: relationship to climate, environment and contact-
lens disinfection". Trans R Soc Trop Med Hyg, 95(4): 361 – 367. 
5. Leck AK, Thomas PA, Hagan M, et al (2002). "Aetiology of 
suppurative corneal ulcers in Ghana and south India, and 
epidemiology of fungal keratitis". Br J Ophthalmol, 86(11): 1211 
– 1215. 
6. Nguyễn Thị Bình Minh, Phùng Thị Tục (2001). "Nhận xét 84 
trường hợp viêm loét giác mạc điều trị tại khoa Mắt bệnh viện 
tỉnh Hà Tây (1999 - 2000)". Nhãn khoa Việt Nam, 2: 10 – 14. 
7. Sharma N, Vajpayee RB (2008). Corneal Ulcers: Diagnosis and 
Management. Jaypee Brothers Medical Publishers (P) Ltd, 3 – 
107. 
8. Vũ Hoàng Việt Chi, Phạm Thị Khánh Vân (2012). "Viêm loét 
giác mạc nhiễm trùng tại bệnh viện Mắt Trung Ương: Đặc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mắt 51
điểm lâm sàng và vi sinh". Nhãn khoa Việt Nam, 29: 28 – 34. 
9. Vũ Thị Tuệ Khanh, Lê Thị Ngọc Lan, Hoàng Thị Minh Châu 
(2006). "Đặc điểm lâm sàng của bệnh viêm loét giác mạc do 
nấm tại khoa kết giác mạc Bệnh viện Mắt Trung ương". Tạp 
chí nghiên cứu Y học, 41(2): tr.54 - 57. 
10. Whitcher JP, Srinivasan M, Upadhyay M P (2001). "Corneal 
blindness: a global perspective". Bulletin of the World Health 
Organization, 79: 214 – 221. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014