Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 544
KHẢO SÁT KIỂU GIEN APO E4 TRÊN NGƯỜI SUY GIẢM NHẬN THỨC NHẸ 
Vũ Anh Nhị*, Nguyễn Linh** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Hiện nay số người bị sa sút trí tuệ (SSTT) ngày càng gia tăng trên thế giới, trong đó bệnh 
Alzheimer (AD – Alzheimer’s Disease) là nguyên nhân thường gặp nhất. Kiểu gien APO E4 là yếu tố nguy 
cơ về di truyền. Suy giảm nhận thức nhẹ (MCI – Mild Cognitive Impairment) được xem là giai đoạn sớm 
của SSTT. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiểu gien APO E4 trên MCI. 
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 31 nam và 54 nữ, tuổi trung bình 58,6 tuổi, nhóm tuổi thường 
gặp nhất  là  từ 50‐59  tuổi  (37,6%). Tỉ  lệ uống  rượu bia  là 30,6%; hút  thuốc  lá 17,6%;  tập  thể dục  thể  thao 
74,1%. Về các bệnh lý đi kèm: 61,2% có tăng huyết áp (THA); 56,5% có rối loạn chuyển hóa (RLCH) lipid; và 
17,6% có đái tháo đường (ĐTĐ). Tỉ lệ có tiền căn gia đình về giảm trí nhớ là 11,8%. Các triệu chứng thường 
gặp nhất là các rối loạn về trí nhớ, chiếm 94,1% và các rối loạn về khí sắc/hành vi/cá tính, chiếm 62,4%. Các 
triệu chứng khác ít gặp hơn: các rối loạn về kỹ năng giải quyết vấn đề 32,9%; các rối loạn về kỹ năng hoạt động 
28,2%; các rối loạn về kỹ năng nhận biết và tập trung 24,7%; các rối loạn về kỹ năng ngôn ngữ và toán học 
14,1%. Điểm MMSE  trung bình  là 26,8 điểm. Kiểu gien APO E4 chiếm  tỉ  lệ 12,9%  (11/85). Không có mối 
tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới tính; giữa kiểu gien APO E4 với THA, ĐTĐ, RLCH lipid, tiền căn 
gia đình về giảm trí nhớ; và giữa kiểu gien APO E4 với triệu chứng giảm trí nhớ và điểm số MMSE. 
Kết luận: Tỉ lệ kiểu gien APO E4 trên MCI là 12,9%. Chúng tôi không tìm thấy mối tương quan giữa kiểu 
gien APO E4 với giới tính cũng như với các yếu tố nguy cơ khác như THA, ĐTĐ, RLCH lipid, tiền căn gia 
đình về giảm trí nhớ, tình trạng giảm trí nhớ và điểm số MMSE. 
Từ khóa: Kiểu gien APO E4, suy giảm nhận thức nhẹ, bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ. 
ABSTRACT 
STUDY OF APO E4 GENOTYPE IN PERSONS WITH MILD COGNITIVE IMPAIRMENT 
Vu Anh Nhi, Nguyen Linh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 544 ‐ 549 
Background: The prevalence of dementia  is  increased  in the world, Alzheimer’s disease (AD)  is the most 
common cause. APO E4 genotype is genetic risk factor. Mild cognitive impairment (MCI) is considered the early 
state of dementia. 
Objective: To evaluate the APO E4 genotype in persons with MCI. 
Methods: Descriptive cross sectional study. 
Results: Our study included 31 males and 54 females, the average age was 58.6 years. Majority of patients 
were  found  to  be  in  the  fifth  to  sixth  decade  of  life  (37.6%). The prevalence  of  alcohol drinking was 30.6%; 
cigarette smoking 17.6%; physical exercise 74.1%. 61.2% of patients had hypertension, 56.5% had dyslipidemia; 
and 17.6% had diabetes. The prevalence of family history of memory impairment was 11.8%. The most frequent 
symptoms  were  memory  decline  (94.1%),  and  disorders  of  mood/behavior/personality  (62.4%).  The  other 
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM ** Khoa Nội thần kinh Bệnh viện Nguyễn Trãi 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Linh ĐT: 0913626936 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  545
symptoms were disorders of problem solving ability (32.9%); disorders of executive function (28.2%); disorders of 
attention/concentration (24.7%); disorders of language and calculation (14.1%). The average MMSE score was 
26.8. The APO E4 genotype was present  in 12.9%  of patients. There was not  association  between APO E4 
genotype and sex; between APO E4 genotype and hypertension, diabetes, dyslipidemia, family history of memory 
impairment; and between APO E4 genotype and memory impairment, MMSE score. 
Conclusion: The prevalence of APO E4 genotype in MCI was 12.9%. There was not association between 
APO E4 genotype and sex or other risk  factors, such as hypertension, diabetes, dyslipidemia,  family history of 
memory impairment, state of memory impairment and MMSE score. 
Key words: APO E4 genotype, mild cognitive impairment, Alzheimer’s disease, dementia. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện  nay  số  người  bị  sa  sút  trí  tuệ  (SSTT) 
ngày  càng  gia  tăng  trên  thế  giới  và  là nguyên 
nhân hàng đầu gây mất khả năng hoạt động ở 
người cao tuổi, trong đó bệnh Alzheimer (AD – 
Alzheimer’s  Disease)  là  nguyên  nhân  thường 
gặp nhất của SSTT, chiếm khoảng 70% trong tất 
cả  các  bệnh  nhân  bị  SSTT.  Chi  phí  chăm  sóc, 
điều  trị cho những bệnh nhân AD  rất  lớn, ước 
tính  khoảng  trên  100  tỷ USD/năm(18). Việc  xác 
định  các  yếu  tố  nguy  cơ  của AD  giúp  phòng 
ngừa và điều trị sớm, cải thiện chất  lượng cuộc 
sống, giảm chi phí điều trị. 
Vai  trò  của gien APO E  trên NST  19  được 
xem  là  yếu  tố  nguy  cơ  về di  truyền,  trong  đó 
APO E4 là alen làm tăng nguy cơ, ngược lại alen 
E2  làm  giảm  nguy  cơ  bị AD,  nếu mang  cùng 
một cặp alen APO E 4/4 tăng nguy cơ AD 51% ở 
nam và 60% ở nữ, mang một alen APO E 4  thì 
tăng nguy cơ AD 23% ở nam và 30% ở nữ (8). 
Suy  giảm  nhận  thức  nhẹ  (MCI  –  Mild 
Cognitive  Impairment)  được  xem  là  giai  đoạn 
chuyển tiếp giữa thay đổi nhận thức do tuổi già 
và những đặc điểm  lâm sàng của SSTT,  là giai 
đoạn tiền triệu của AD(18). 
Hiện nay có rất nhiều nhà nghiên cứu trên 
thế giới đang khảo sát các yếu tố nguy cơ trên 
MCI với mong muốn phát hiện  sớm và ngăn 
ngừa  tiến  triển  thành AD. Tỉ  lệ APO E4  trên 
MCI  đã  và  đang  được  nghiên  cứu  rất  nhiều 
trên thế giới. 
Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào khảo 
sát tỉ lệ APO E4 trên MCI, do đó mục đích tiến 
hành nghiên cứu của chúng  tôi nhằm khảo sát 
kiểu  gien APO  E4  trên  người  suy  giảm  nhận 
thức nhẹ để theo dõi và điều trị sớm, ngăn ngừa 
tiến triển đến AD. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối  tượng nghiên  cứu  là  tất  cả  bệnh  nhân 
MCI đến khám tại phòng khám/khoa Thần Kinh 
hoặc  đang nằm  điều  trị  tại  bệnh  viện Nguyễn 
Trãi  từ  tháng  7/2012  đến  tháng  5/2013.  Tiêu 
chuẩn chọn bệnh là người có than phiền về giảm 
trí nhớ và/hoặc giảm các chức năng nhận  thức 
khác kèm với MMSE 25‐28 điểm và IADL bình 
thường. Tiêu chuẩn loại trừ gồm rối loạn tri giác, 
tâm  thần, động kinh, chấn  thương đầu cấp,  tai 
biến mạch máu não  cấp, giảm  thính  lực và  thị 
lực nặng, mù chữ. 
Nghiên  cứu mô  tả  cắt  ngang. Các  biến  số 
gồm: giới, tuổi; uống rượu bia, hút thuốc lá, tập 
thể dục thể thao, các bệnh lý kèm theo, tiền căn 
gia  đình  về  giảm  trí nhớ;  các  chức  năng  nhận 
thức bị suy giảm, điểm MMSE; và kiểu gen APO 
E4. Các  số  liệu  được  xử  lý  và  phân  tích  bằng 
phần mềm STATA 10 và EXCEL 2007, khảo sát 
mối  tương  quan  giữa  suy  giảm  nhận  thức  và 
kiểu gen APO E4. Biến số định  tính được  trình 
bày  dưới  dạng  tần  số,  tỷ  lệ  %.  Biến  số  định 
lượng  được  trình  bày  dưới  dạng  giá  trị  trung 
bình và độ  lệch chuẩn. Sự tương quan giữa các 
biến  số nếu  có  được khảo  sát bằng phép kiểm 
chi bình phương và phép kiểm chính xác Fisher 
cho các biến định tính; phép kiểm t‐student cho 
các biến định lượng. Giá trị p ≤0,05 được xem là 
có ý nghĩa thống kê. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 546
KẾT QUẢ 
Đặc điểm về dịch tễ học, yếu tố nguy cơ và 
suy giảm nhận thức của nhóm nghiên cứu: 
Nghiên cứu của chúng tôi có tất cả 85 trường 
hợp MCI. Trong đó, giới nam chiếm 36,5%, thấp 
hơn so với giới nữ, chiếm 63,5% (tỉ lệ nam:nữ là 
0,57:1). Sự khác biệt giữa  tỉ  lệ nam và nữ  trong 
mẫu nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê với p = 
0,0126 <0,05. Tuổi trung bình là 58,6 ± 11,5 tuổi. 
Nhóm  tuổi  thường  gặp  nhất  là  từ  50‐59  tuổi, 
chiếm tỉ lệ 37,6%. 
Tỉ  lệ uống  rượu  bia  là  30,6%;  hút  thuốc  lá 
17,6%; tập thể dục thể thao 74,1%. Về các bệnh lý 
đi kèm: 61,2% có THA; 56,5% có RLCH lipid; và 
17,6%  có  ĐTĐ.  11,8%  có  tiền  căn  gia  đình  về 
giảm trí nhớ. 
Các  triệu chứng  thường gặp nhất  là các  rối 
loạn về  trí nhớ, chiếm 94,1% và các rối  loạn về 
khí  sắc/hành vi/cá  tính,  chiếm 62,4%. Các  triệu 
chứng khác  ít gặp hơn: các rối  loạn về kỹ năng 
giải quyết vấn đề 32,9%; các rối loạn về kỹ năng 
hoạt động 28,2%; các rối  loạn về kỹ năng nhận 
biết và tập trung 24,7%; các rối loạn về kỹ năng 
ngôn ngữ và toán học 14,1%. Điểm MMSE trung 
bình là 26,8 ± 1,3 điểm. 
Tỉ lệ kiểu gien APO E4 
Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, kiểu gien 
APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9% (11/85). 
Sự tương quan giữa kiểu gien APO E4 với 
các đặc điểm suy giảm nhận thức và yếu tố 
nguy cơ mạch máu của nhóm nghiên cứu 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có 
mối tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới 
tính  (OR = 1,62; 95%CI: 0,35‐10,23; p  =  0,4970 
>0,05). 
Chúng tôi cũng không tìm thấy mối tương 
quan  giữa  kiểu  gien  APO  E4  với  THA 
(OR=0,48;  95%CI:  0,11‐2,10;  p  =  0,2515  >0,05); 
giữa  kiểu  gien APO  E4  với  ĐTĐ  (p  =  0,0999 
>0,05); giữa kiểu gien APO E4 với RLCH lipid 
(OR = 0,91; 95%CI: 0,21‐4,15; p = 0,8902 >0,05); 
và giữa kiểu gien APO E4 và tiền căn gia đình 
về giảm  trí nhớ  (OR  =  0,72;  95%CI:  0,01‐6,34; 
p=0,7680 >0,05). 
Các  số  liệu  của  chúng  tôi  cũng  cho  thấy 
không có mối  tương quan giữa kiểu gien APO 
E4 và triệu chứng giảm trí nhớ (p = 0,3740 >0,05). 
Điểm MMSE  trung  bình  trong  nhóm  có  kiểu 
gien APO E4  là 27,5 ± 1,0 điểm và  trong nhóm 
không có kiểu gien APO E4 là 26,7 ± 1,3 điểm. Sự 
khác biệt này cũng không có ý nghĩa  thống kê 
với p = 0,0916 >0,05. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm về dịch tễ học, yếu tố nguy cơ và 
suy giảm nhận thức của nhóm nghiên cứu: 
Chúng tôi ghi nhận giới nữ chiếm 63,5%, cao 
hơn  so  với  giới  nam,  36,5%;  tỉ  lệ  nam:nữ  là 
0,57:1; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p 
=  0,0126  <0,05. Kết quả này  cũng phù hợp với 
nhiều  tác  giả  khác,  như  Kivipelto(10),  Artero(2). 
Nghiên cứu của Luck T (2007) cho thấy nguy cơ 
MCI  của giới nữ nhiều hơn gấp  1.4  lần  so với 
giới  nam  (OR  =  1,36;  95%:  1,14‐1,63)(12).  Tuy 
nhiên, trong thời gian gần đây có một số tác giả 
ghi nhận  tỉ  lệ MCI  gặp  ở  giới nam nhiều hơn 
giới  nữ,  như  Geda  YE  (2010)(7)  và  Robert  RO 
(2010)(16). Tác giả Petersen RC (2010) báo cáo tỉ lệ 
nữ  trong nhóm MCI  là 41,6% và  cho  thấy giới 
nam  là  yếu  tố  làm  tăng  nguy  cơ MCI(14).  Tuổi 
trung bình của các đối  tượng  trong nghiên cứu 
của chúng  tôi  là 58,6 ± 11,5  tuổi, và nhóm  tuổi 
thường gặp nhất  là  từ 50‐59, chiếm  tỉ  lệ 37,6%. 
Chúng  tôi  nhận  thấy  hầu  hết  các  tác  giả  khác 
đều báo cáo tuổi của các đối tượng MCI khá cao. 
Trong nghiên cứu của Đỗ Văn Thắng, tuổi trung 
bình  là  71,2  tuổi và nhóm  tuổi  chiếm  tỉ  lệ  cao 
nhất  là 71‐80  tuổi(5). Tuổi  trung bình của nhóm 
MCI  trong nghiên cứu của Luck T  là 80,2 ± 3,6 
tuổi (12), và trong nghiên cứu của Ritchie K là 77,8 
± 5,73 tuổi(15). Số liệu từ nghiên cứu của Tervo S 
cho  thấy  tuổi  cao  là  yếu  tố  làm  tăng  nguy  cơ 
MCI(17). Tác giả Artero S còn ghi nhận  tuổi cao 
làm tăng nguy cơ tiến triển đến SSTT của các đối 
tượng MCI(2). Tuổi trung bình của các đối tượng 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn hẳn so 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  547
với các nghiên cứu khác, do: chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và tiêu chuẩn chọn 
mẫu không giới hạn độ tuổi. Hầu hết các nghiên 
cứu về MCI  trên  thế giới  đều  chọn những  đối 
tượng nghiên cứu trên 65 tuổi, do đó tuổi trung 
bình  trong  các  nghiên  cứu  này  tương  đối  cao. 
Trong khi đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại 
bệnh  viện  Nguyễn  Trãi,  với  đối  tượng  bệnh 
nhân ở đây phần  lớn  là cán bộ công nhân viên 
và hưu trí. Chúng tôi ghi nhận nhóm tuổi chiếm 
tỉ  lệ  cao  nhất  là  50‐59  tuổi,  đây  là  những  đối 
tượng vừa mới nghỉ hưu thường có những thay 
đổi về môi trường, sinh hoạt, tâm sinh lý, do đó 
sẽ dễ nhận  thấy và có  than phiền về mặt nhận 
thức,  trí nhớ và do đó những đối  tượng này 
dễ được đưa vào mẫu nghiên cứu. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  có 
uống  rượu  bia  và  hút  thuốc  lá  tương  ứng  là 
30,6% và 17,6%. Kết quả này tương đối thấp so 
với các tác giả khác như Kivipelto M (ghi nhận 
các  tỉ  lệ  tương  ứng  là  62,5%  và  35,4%)(10)  hay 
Ritchie K (79,7% và 33,9%)(15). Điều này có thể lý 
giải là do: thứ nhất, tỉ lệ nữ nhiều hơn nam trong 
mẫu nghiên cứu; thứ hai, đối tượng nghiên cứu 
của chúng tôi phần lớn là các cán bộ công nhân 
viên chức đã nghỉ hưu, có trình độ học vấn cao 
và có hiểu biết về kiến thức y học phổ thông, có 
ý thức tự bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cũng vì 
vậy nên  chúng  tôi ghi nhận  tỉ  lệ  có  tập TDTT 
khá cao, 74,1%. Kết quả này của chúng tôi tương 
tự với của Geda YE, tác giả này ghi nhận 70,7% 
nhóm MCI  có  tập  TDTT,  đồng  thời  cũng  cho 
thấy vận động thể lực mức độ trung bình có thể 
làm giảm 39% nguy cơ MCI (OR = 0,61; 95%CI: 
0,43‐0,88)(7). Tuy nhiên, nhiều nghiên  cứu  khác 
như của Artero S (2) và Robert RO (16) lại báo cáo tỉ 
lệ này thấp hơn, chỉ khoảng 30%. Trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  THA  là  61,2%, RLCH 
lipid 56,5% và ĐTĐ 17,6%. Tác giả Diệp Trọng 
Khải cũng ghi nhận các tỉ lệ tương ứng là 47,8%, 
21,7%  và  8,7%(4).  Tỉ  lệ  THA  trong  nhóm  đối 
tượng MCI  thay  đổi  rất nhiều giữa  các nghiên 
cứu  khác  nhau  trên  thế  giới  như Kivipelto M 
(26,8%)(10),  Artero  S  (78,6%)(2),  Ritchie  K 
(63,8%)(15). Sự khác biệt này có thể do các tác giả 
áp dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán MCI và THA 
khác nhau. Chúng tôi nhận thấy, các tác giả khác 
trên thế giới khi nghiên cứu về tỉ  lệ ĐTĐ trong 
nhóm MCI cũng báo cáo những kết quả  tương 
tự  trong khoảng  từ 10‐30%. Tỉ  lệ ĐTĐ ở nhóm 
MCI  trong nghiên  cứu  của Luck T  là  24,5%(12), 
của  Ritchie  K  là  19%(15)  và  của  Robert  RO  là 
13,5%(16). Các tác giả Artero S (2) và Li J(11) còn cho 
thấy ĐTĐ làm tăng nguy cơ MCI và tăng nguy 
cơ  tiến  triển  đến SSTT và AD  ở  các  đối  tượng 
MCI.  Tỉ  lệ  RLCH  lipid  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi là 56,5%, cũng gần tương tự với các tác 
giả  khác  trên  thế  giới  như  Luck  T  (55,9%)(12), 
Artero S (59%)(2), Robert RO (50,3%)(16) và Ritchie 
K  (53,7%)(15). Nghiên  cứu  của  Li  J  khẳng  định 
RLCH  lipid  làm  tăng nguy  cơ MCI,  tăng nguy 
cơ tiến triển đến SSTT và AD ở đối tượng MCI, 
và việc điều trị tình trạng RLCH lipid giúp làm 
giảm nguy cơ này(11). Chúng tôi ghi nhận 11,8% 
các trường hợp có tiền căn gia đình về giảm trí 
nhớ. Tác  giả Andrawis  JP  báo  cáo  tỉ  lệ  này  là 
44%(1). Nghiên cứu của chúng  tôi ghi nhận  tỉ  lệ 
này khá thấp, do: thứ nhất, cỡ mẫu nhỏ; thứ hai, 
chúng  tôi  lấy  thông  tin  về  tiền  căn  gia  đình 
thông  qua  lời  khai  của  đối  tượng  nghiên  cứu, 
không  trực  tiếp đánh giá chức năng nhận  thức 
của người  thân của đối  tượng, do đó có  thể đã 
bỏ sót nhiều trường hợp. 
Chúng tôi ghi nhận các triệu chứng thường 
gặp nhất là các rối loạn về trí nhớ (94,1%) và các 
rối  loạn về khí  sắc/hành vi/cá  tính  (62,4%);  các 
triệu chứng khác ít gặp hơn như các rối loạn về 
giải  quyết  vấn  đề  (32,9%),  các  rối  loạn  về  kỹ 
năng  hoạt  động  (28,2%),  các  rối  loạn  về  nhận 
biết và tập trung (24,7%), các rối loạn về kỹ năng 
ngôn  ngữ  và  toán  học  (14,1%).  Tác  giả  Diệp 
Trọng Khải ghi nhận tỉ  lệ có rối  loạn về trí nhớ 
trong nhóm MCI là 95,7%(4). Trong khi đó 100% 
các  đối  tượng  trong  nghiên  cứu  của  Nguyễn 
Kim Việt được ghi nhận là có rối loạn về trí nhớ 
và  65,7%  có  rối  loạn  về  hành  vi/tác  phong(13). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  điểm MMSE 
trung bình là 26,8 ± 1,3 điểm. Kết quả này cũng 
gần  tương  tự với  các nghiên  cứu về MCI khác 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 548
như  của  Kivipelto  M  (26,3  ±  1,9  điểm)(10), 
Devanand DP (27,6 ± 2 điểm)(3).  
Tỉ lệ kiểu gien APO E4 
Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, kiểu gien 
APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9%. Kết quả này thấp hơn 
so  với  nhiều  tác  giả  khác  trên  thế  giới,  như 
Robert RO (33,3%)(16), Ritchie K (31,6%)(15). Nhiều 
tác giả đã đưa ra kết luận rằng kiểu gien APO E4 
làm  tăng nguy cơ MCI như Luck T  (OR = 1,40; 
95%CI: 1,12‐1,76)(12) và Petersen RC  (OR = 1,68; 
95%CI:  1,26‐2,24)(14).  Ngoài  ra,  các  nghiên  cứu 
khác trên thế giới còn cho thấy những đối tượng 
đã  được  chẩn  đoán  là MCI  nếu  có  kiểu  gien 
APO E4 thì sẽ có nguy cơ cao hơn tiến triển đến 
SSTT và AD. Nghiên cứu của Artero S đã chứng 
minh được kiểu gien APO E4 là yếu tố làm tăng 
nguy cơ tiến triển đến SSTT trong nhóm MCI ở 
cả hai giới nam (OR = 3,15; 95%CI: 1,74‐5,70) và 
nữ  (OR  =  2,34;  95%CI:  1,38‐3,96)(2).  Gần  đây, 
nghiên  cứu  của Wang PN  cũng ghi nhận kiểu 
gien APO E4 làm tăng tỉ lệ và rút ngắn thời gian 
tiến triển đến AD ở các đối tượng MCI (HR = 2; 
95%CI: 1,2‐3,2)(19). So với các tác giả trên, nghiên 
cứu của chúng tôi có nhiều hạn chế hơn. Trước 
hết,  do  cỡ mẫu  nhỏ  và  thời  gian  nghiên  cứu 
ngắn,  tỉ  lệ kiểu gien APO E4 của chúng  tôi chỉ 
khoảng 12,9%, thấp hơn nhiều so với các nghiên 
cứu khác. Ngoài ra, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu theo phương pháp cắt ngang mô tả, không 
có nhóm chứng và không có thời gian  theo dõi 
tiến  triển của các đối  tượng nghiên cứu, do đó 
chúng  tôi  chỉ  báo  cáo  tỉ  lệ  kiểu  gien APO  E4 
trong nhóm đối tượng nghiên cứu tại thời điểm 
nghiên cứu, không đưa ra kết  luận về mối  liên 
quan giữa kiểu gien này và  tần  suất hiện mắc 
cũng như tiến triển của các đối tượng MCI. 
Sự tương quan giữa kiểu gien APO E4 với 
các đặc điểm suy giảm nhận thức và yếu tố 
nguy cơ mạch máu của nhóm nghiên cứu 
Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, không  có 
mối tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới 
tính. Kết quả này phù hợp với  các nghiên  cứu 
của Luck T(12) và Petersen RC(14). Chúng tôi cũng 
ghi nhận  không  có mối  tương  quan  giữa  kiểu 
gien APO E4 với các bệnh lý đi kèm như THA, 
ĐTĐ và RLCH lipid. Nghiên cứu của Kalmjin S 
cũng không ghi nhận mối tương quan giữa kiểu 
gien APO E4 với THA và ĐTĐ, tuy nhiên tác giả 
lại nhận thấy có mối tương quan giữa kiểu gien 
APO E4 với RLCH lipid, đồng thời còn cho thấy, 
khi  ĐTĐ  hoặc  tăng  cholesterol  toàn  phần  kết 
hợp với kiểu gien APO E4 sẽ làm tăng nguy cơ 
suy giảm nhận  thức  lên nhiều hơn  so với hiệu 
quả của một mình kiểu gien APO E4(9). Tác giả 
Tervo S cũng đề cập đến hiệu quả phối hợp của 
kiểu gien APO E4 và THA  trong việc  làm  tăng 
nguy  cơ  MCI(17).  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
không  tìm  thấy mối  liên  quan  giữa  kiểu  gien 
APO E4 và tiền căn gia đình về giảm trí nhớ. Kết 
quả này phù hợp với nghiên  cứu  của Xu G(20). 
Tuy nhiên, nghiên cứu của Andrawis JP  lại ghi 
nhận tỉ  lệ có tiền căn gia đình về SSTT ở nhóm 
có kiểu gien APO E4 cao hơn có ý nghĩa so với 
nhóm không có kiểu gien này(1).  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  có 
mối liên quan giữa kiểu gien APO E4 và giảm trí 
nhớ. Có  nhiều  công  trình  nghiên  cứu  trên  thế 
giới  đã ghi nhận mối  liên quan giữa kiểu gien 
APO E4 và giảm trí nhớ. Nghiên cứu của Farlow 
MR  cho  thấy  những  bệnh  nhân MCI  có  kiểu 
gien APO  E4  sẽ  có  suy  giảm  trí  nhớ  và  hoạt 
động chức năng nhiều hơn so với những bệnh 
nhân MCI không có kiểu gien APO E4(6). Nghiên 
cứu của chúng tôi không ghi nhận được sự liên 
quan này, có thể do chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu  với  cỡ  mẫu  nhỏ.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi không  có mối  tương quan giữa kiểu 
gien APO E4  và  điểm  số MMSE. Kết  quả  này 
cũng phù hợp với nghiên cứu của Kalmijn S(9) và 
Devanand DP(3). Tuy nhiên,  tác giả Farlow MR 
lại ghi nhận nhóm có kiểu gien APO E4 có điểm 
số MMSE  thấp  hơn  có  ý  nghĩa  so  với  nhóm 
không có kiểu gien APO E4(6). 
KẾT LUẬN 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  gồm  85  trường 
hợp MCI,  tuổi  trung bình  là 58,6, nhóm  tuổi  từ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  549
50‐59 thường gặp nhất, giới nữ chiếm tỉ lệ 63,5%, 
cao hơn có ý nghĩa so với giới nam. Tỉ lệ có uống 
rượu bia  là 30,6%, hút thuốc  lá  là 17,6%, có  tập 
TDTT  là  74,1%.  Tỉ  lệ  THA  là  61,2%,  ĐTĐ  là 
17,6%,  RLCH  lipid  là  56,5%.  Có  11,8%  các 
trường hợp có tiền căn gia đình về giảm trí nhớ. 
Về lâm sàng, các triệu chứng thường gặp nhất là 
giảm trí nhớ (94,1%) và rối loạn về khí sắc, hành 
vi, cá tính (62,4%). Điểm MMSE trung bình của 
nhóm nghiên cứu là 26,8 điểm. 
Kiểu gien APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9%. 
Không có mối liên quan giữa kiểu gien APO 
E4 với giới tính cũng như với các yếu tố nguy cơ 
khác như THA, ĐTĐ, RLCH  lipid,  tiền căn gia 
đình về giảm trí nhớ, tình trạng giảm trí nhớ và 
điểm số MMSE. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andrawis JP, et al (2012). Effects of ApoE4 and maternal history 
of dementia on hippocampal atrophy. Neurobiol Aging, 33(5): 
856‐866. 
2. Artero  S,  et  al  (2008).  Risk  profiles  for  mild  cognitive 
impairment and progression to dementia are gender specific. J 
Neurol Neurosurg Psychiatry, 79(9): 979‐984. 
3. Devanand DP, et al (2005). Predictive utility of apolipoprotein E 
genotype  for  Alzheimer  disease  in  outpatients  with  mild 
cognitive impairment. Arch Neurol, 62(6): 975‐980. 
4. Diệp Trọng Khải (2012). Đánh giá suy giảm nhận  thức và  tổn 
thương não bằng cộng hưởng từ ở người lớn tuổi. Luận án Bác 
sĩ  chuyên  khoa  cấp  II,  Trường  Đại  học  Y  Dược  TPHCM, 
TPHCM. 
5. Đỗ Văn Thắng (2007). Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và 
trắc nghiệm thần kinh tâm lý ở bệnh nhân sa sút trí tuệ mạch 
máu tại Viện Lão Khoa. Luận văn Bác sĩ chuyên khoa II, Trường 
Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 
6. Farlow MR,  et  al  (2004).  Impact  of APOE  in mild  cognitive 
impairment. Neurology, 63(10): 1898‐1901. 
7. Geda  YE,  et  al  (2010).  Physical  exercise,  aging,  and  mild 
cognitive impairment: a population‐based study. Arch Neurol, 
67(1): 80‐86. 
8. Genin  E,  et  al  (2011). APOE  and Alzheimer disease:  a major 
gene  with  semi‐dominant  inheritance. Mol  Psychiatry,  16(9): 
903‐907. 
9. Kalmijn  S,  et  al  (1996).  Cerebrovascular  disease,  the 
apolipoprotein e4 allele, and cognitive decline in a community‐
based study of elderly men. Stroke, 27(12): 2230‐2235. 
10. Kivipelto M, et al (2001). Midlife vascular risk factors and late‐
life  mild  cognitive  impairment:  A  population‐based  study. 
Neurology, 56(12): 1683‐1689. 
11. Li J, et al (2011). Vascular risk factors promote conversion from 
mild  cognitive  impairment  to Alzheimer  disease. Neurology, 
76(17): 1485‐1491. 
12. Luck  T,  et  al  (2007).  Mild  cognitive  impairment  in  general 
practice: age‐specific prevalence and correlate results  from  the 
German  study on ageing,  cognition and dementia  in primary 
care patients  (AgeCoDe). Dement Geriatr Cogn Disord, 24(4): 
307‐316. 
13. Nguyễn Kim Việt (2004). Nghiên cứu chẩn đoán bệnh Alzheimer. 
Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 
14. Petersen  RC,  et  al  (2010).  Prevalence  of  mild  cognitive 
impairment is higher in men. The Mayo Clinic Study of Aging. 
Neurology, 75(10): 889‐897. 
15. Ritchie  K,  et  al  (2010).  Retrospective  identification  and 
characterization  of  mild  cognitive  impairment  from  a 
prospective population cohort. Am  J Geriatr Psychiatry, 18(8): 
692‐700. 
16. Roberts  RO,  et  al  (2010).  Polyunsaturated  fatty  acids  and 
reduced  odds  of  MCI:  the  Mayo  Clinic  Study  of  Aging.  J 
Alzheimers Dis, 21(3): 853‐865. 
17. Tervo  S,  et  al  (2004).  Incidence  and  risk  factors  for  mild 
cognitive impairment: a population‐based three‐year follow‐up 
study  of  cognitively  healthy  elderly  subjects. Dement Geriatr 
Cogn Disord, 17(3): 196‐203. 
18. Vũ Anh Nhị (2009). Suy giảm nhận thức. trong Vũ Anh Nhị. Sa 
sút trí tuệ, 2 ed., pp. 18‐22. NXB Y học, TPHCM. 
19. Wang  PN,  et  al  (2011). APOE  epsilon4  increases  the  risk  of 
progression  from  amnestic  mild  cognitive  impairment  to 
Alzheimerʹs disease among ethnic Chinese in Taiwan. J Neurol 
Neurosurg Psychiatry, 82(2): 165‐169. 
20. Xu  G,  et  al  (2009).  The  influence  of  parental  history  of 
Alzheimerʹs  disease  and  apolipoprotein  E  epsilon4  on  the 
BOLD signal during recognition memory. Brain, 132(Pt 2): 383‐
391. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014