Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên quan giữa cấu hình mống mắt với góc tiền phòng hẹp ở
những bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, mô tả, có nhóm chứng ở 94 bệnh nhân ≥ 40
tuổi đến khám tại bệnh viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 6/1012 đến tháng 6/2013. Các bệnh
nhân này sẽ được soi góc tiền phòng và phân độ theo Shaffer để chia thành hai nhóm: nhóm góc hẹp gồm 47
bệnh nhân có góc tiền phòng hẹp độ 2 trở xuống ở ít nhất 2 góc phần tư và nhóm chứng gồm 47 bệnh nhân
có góc góc tiền phòng rộng độ 3, 4 ở ít nhất 3 góc phần tư. Những bệnh nhân này sẽ được chụp OCT phần
trước nhãn cầu để đánh giá các thông số về phần trước nhãn cầu và đánh giá độ dày mống mắt, độ cong
mống mắt
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 993 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Khảo sát mối liên quan giữa cấu hình mống mắt và góc tiền phòng hẹp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học
Mắt 75
nhất(1). Trong nghiên cứu này, độ mở góc ở nam 
cũng cao hơn so với nữ, tương tự như trong 
nghiên cứu của chúng tôi. 
Ở cả 2 nhóm,mống mắt ở cách cựa củng mạc 
500µm và 750µm dày nhất ở góc phần tư trên và 
mỏng nhất ở góc phần tư thái dương. Góc phần 
tư trên là hẹp nhất nên mống mắt chu biên ở đây 
dày nhất là hợp lý. Tương tự, góc phần tư thái 
dương là rộng nhất, phù hợp với độ dày mống 
mắt chu biên ở thái dương là mỏng nhất. Liu 
nghiên cứu ở 30 người bình thường cũng nhận 
thấy mống mắt chu biên ở cách cựa củng mạc 
500µm là dày nhất ở góc phần tư trên và mỏng 
nhất ở góc phần tư thái dương, tương ứng với 
kết quả nghiên cứu của chúng tôi(8). 
Mống mắt ở cách cựa củng mạc 2000µm 
mỏng nhất là ở góc phần tư mũi, dày nhất ở góc 
phần tư dưới trong nhóm góc hẹp và ở góc phần 
tưtrên trong nhóm chứng, nó không phù hợp với 
mức độ mở góc tương ứng. Điều này cho thấy 
mống mắt càng vào trung tâm thì độ dày của nó 
càng ít có sự liên quan đến độ mở góc tiền 
phòng. Càng ở chu biên thì mống mắt càng 
mỏng và càng vào trung tâm thì mống mắt càng 
dày. Trong nghiên cứu của Wang thì mống mắt 
ở chu biên cách cựa củng mạc 750µm mỏng hơn 
so với ở trung tâm cách cựa củng mạc 2000µm(12), 
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi. 
Độ cong của mặt sau mống mắt cũng lớn 
nhất ở góc phần tư trên và nhỏ nhất ở góc 
phần tư thái dương. Mống mắt càng cong ra 
trước nhiều thì khả năng tiếp xúc giữa mặt 
trước mống mắt tới mặt sau giác mạc càng cao, 
làm giảm khoảng cách giữa mống mắt và giác 
mạc (hay AOD giảm), nguy cơ hẹp góc tiền 
phòng càng tăng. 
Độ dày và độ cong của mống mắt trong 
nhóm góc hẹp là cao hơn so với của nhóm chứng 
với p<0,001. Như vậy có thể thấy độ dày và độ 
cong mống mắt cũng là yếu tố nguy cơ gây hẹp 
góc tiền phòng. Mống mắt càng dày và cong 
nhiều ra trước thì càng làm tiền phòng trở nên 
nông hơn. Mống mắt dày nhiều, cong nhiều ở 
phía chu biên làm thu hẹp góc dẫn tới đóng góc. 
Về mối liên quan giữa tham số định lượng 
cấu hình mống mắt với góc tiền phòng hẹp: chỉ 
số IT500 có độ nhạy trong việc tầm soát góc tiền 
phòng hẹp là 72,34%, cao hơn chỉ số IT750 và 
IT2000. Tuy nhiên độ đặc hiệu của các chỉ sổ này 
trong việc chẩn đoán góc tiền phòng hẹp lại rất 
thấp dưới 60%. 
Sự khác biệt về độ nhạy và độ đặc hiệu 
giữa ba thông số IT50, IT750 và IT2000 có thể 
được giải thích là do mống mắt ở phía trung 
tâm, gần lỗ đồng tử quá thì càng xa khỏi vùng 
bè, mống mắt ở đây dù dày hay mỏng thì cũng 
không thể tiếp xúc với lưới bè được, do đó 
không thể gây nên tình trạng hẹp góc tiền 
phòng được. Càng ra phía ngoại biên, mống 
mắt càng gần với vùng bè hơn, mống mắt ở 
cách cựa củng mạc 500µm có liên quan mật 
thiết với các thông số AOD500 và TISA500 là 
những thông số được dùng để đánh giá góc 
tiền phòng trên AS-OCT, do đó thông số IT500 
có liên quan nhiều với tình trạng đóng hay mở 
của góc tiền phòng hơn so với thông số IT750. 
Từ các kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của 
độ dày mống mắt như trên, chúng tôi nhận 
thấy đây là một ứng dụng trong việc chỉ định 
laser cắt mống chu biên trong phòng ngừa cơn 
góc đóng cấp ở những bệnh nhân có nguy cơ. 
Một bệnh nhân đến khám ngoài các yếu tố 
nguy cơ có thể gây cơn góc đóng cấp đã biết 
trước đây như tiền phòng nông, góc tiền 
phòng hẹp thì có thể nên chụp AS-OCT để 
đánh giá một cách toàn diện các cấu trúc phần 
trước nhãn cầu như tiền phòng, thể thủy tinh 
và mống mắt, nhất là mống mắt ở phía chu 
biên. Như đã thấy, mống mắt ở cách cựa củng 
mạc 500µm là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao 
nhất đối với tình trạng đóng góc, do đó khi 
khảo sát thấy mống mắt ở đây dày thì cũng là 
một yếu tố hỗ trợ thêm cho các bác sĩ lâm sàng 
có thể chẩn đoán và chỉ định laser cắt mống 
mắt chu biên cho bệnh nhân. 
Độ cong của mặt sau mống mắt là chỉ số có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 76
độ nhạy 78,72% đối với góc tiền phòng hẹp, đủ 
để coi như một test tầm soát có hiệu quả. Còn độ 
đặc hiệu của nó là 55,32%, không đủ để được coi 
là một test chẩn đoán tốt. Do đó thông số này chỉ 
có giá trị trong việc tầm soát chứ không có giá trị 
nhiều trong việc chẩn đoán góc tiền phòng hẹp. 
Từ những kết quả đánh giá độ nhạy, độ đặc 
hiệu của các thông số về cấu hình mống mắt 
trong việc tầm soát và chẩn đoán góc tiền phòng 
hẹp nêu trên, chúng tôi xin đưa ra gợi ý rằng 
những bệnh nhân có mống mắt dày và/ hoặc 
cong nhiều ra trước cần phải được đánh giá một 
cách cẩn thận và tỉ mỉ về khảo sát cụ thể độ dày 
và độ cong là bao nhiêu. Vì với những mắt có 
mống mắt dày (IT500 lớn hơn 281,25µm, IT750 
lớn hơn 316,25µm hay IT2000 lớn hơn 391,25µm) 
và cong nhiều ra trước (ICurv lớn hơn 281,25µm) 
khi đo bằng máy AS-OCT thì có nguy cơ bị đóng 
góc cao hơn so với những mắt có mống mắt 
mỏng và phẳng. 
Như vậy, có thể thấy mống mắt là một yếu 
tố có liên quan tới trình trạng góc tiền phòng 
hẹp. Do đó, khi tiến hành tầm soát ở những 
bệnh nhân có nguy cơ glôcôm góc đóng hay 
góc tiền phòng hẹp thì ngoài các yếu tố như 
tuổi, giới, nhãn áp, độ mở góc tiền phòng thì 
độ dày mống mắt, độ cong mống mắt cũng 
cần phải được xem xét, đánh giá trong quá 
trình tầm soát này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Biện Thị Cẩm Vân, Nguyễn Công Kiệt (2012), So sánh độ mở 
góc giữa chụp cắt lớp quang học phần trước nhãn cầu và soi 
góc tiền phòng, Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1): 1-5. 
2. Dorairaj S, Liebmann JM, Ritch R (2007), “Quantitative 
evaluation of anterior segment parameters in the era of 
imaging”, Trans Am Ophthalmol Soc, 105: 99-110. 
3. Hu Z, Zhao J, Dong F (1989), “An epidemiological study of 
glaucomain Shunys County, Beijing [in Chinese]”, Zhonghua 
Yan Ke Za Zhi, 25: 115-118. 
4. Ishikawa H (2007), “Anterior segment imaging for glaucoma: 
OCT or UBM?”, Br J Ophthalmol, 91: 1420-1421. 
5. Jonas JB, Nangia V, Gupta R, et al (2012), “Anterior chamber 
depth and its associations with ocular and general parameters 
in adults”, Clinical and Experimental Ophthalmology, 40: 550-556. 
6. Kalev-Landoy M, Day AC, Cordeiro MF, Migdal C (2007), 
“Optical Coherence Tomography in anterior segment 
imaging”, Acta Ophthalmol Scand, 85(4): 427-430. 
7. Lê Minh Thông (2010), “Soi góc tiền phòng”, Nhãn khoa Cận 
lâm sàng, NXB Y học. 26-32. 
8. Liu S, Yu M, Ye C, Lam DS, Leung CK. (2011), “Anterior 
chamber angle imaging with Swept - Source Optical 
Coherence Tomography: An investigation on variability of 
angle measurement”, Invest Ophthalmol Vis Sci, 52(12): 8598-
8603. 
9. Lowe RF (1970), “Aetiology of the anatomical basis for 
primary angle-closure glaucoma”, Br J Ophthalmol, 51: 161-169. 
10. Nongpiur Monisha E, He M, Amerasinghe N (2011), “Lens 
vault, thickness and position in Chinese subjects with angle 
closure”, Ophthalmology, 118(3): 474-479. 
11. Salim S (2012), "The Role of Anterior Segment Optical 
Coherence Tomography in Glaucoma", Journal of 
Ophthalmology: 1-9. 
12. Wang B, Sakata LM, Friedman DS, et al (2010), “Quantitative 
Iris Parameters and Association with Narrow Angles”, 
Ophthalmology, 117(1): 11-17. 
13. Wang BS, Narayanaswamy A, Amerasinghe N, Zheng C, He 
M, Chan YH, Nongpiur ME, Friedman DS, Aung T. (2011), 
“Increased iris thickness and association with primary angle 
closure glaucoma”, Br J Ophthalmol, 95(1): 46-50. 
14. Xu L, Wei FL, Wang YX (2008), “Anterior chamber depth and 
chamber angle and their associations with ocular and general 
parameters: The Beijing Eye Study”, Am J Ophthalmol, 145(5): 
929-936. 
15. Yanoff & Duker (2009), Ophthalmology, 3rd ed, Mosby, An 
Imprint of Elsevier. 1162-1172. 
Ngày nhận bài báo:14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:15/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 70_753.pdf 70_753.pdf