Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng kháng insulin với đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân
(BN) đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2.
Đối tượng nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang 288 đối tượng, chia làm 3 nhóm.
Nhóm1 ‐ chứng khỏe mạnh (n=51), nhóm 2 ‐ chứng BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương thận (n= 113), nhóm 3 ‐
BN ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận (n= 124) khi có 1 trong các biểu hiện vi đạm niệu (MAU), albumin niệu
(MAC), suy thận mạn tính (STMT) chưa có lọc máu chu kỳ. Tất cả các đối tượng được định lượng glucose‐máu
lúc đói, insulin huyết thanh, C‐peptid huyết thanh. Dựa vào nồng độ glucose, C‐peptid huyết thanh để xác định
chỉ số kháng insulin, độ nhạy insulin, chức năng tế bào beta theo mô hình HOMA2 vi tính, ký hiệu lần lượt là:
HOMA2‐IR, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B. Xác định có kháng insulin khi nồng độ insulin, C‐peptid và
HOMA‐IR cao hơn, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B thấp hơn so với chỉ số tương ứng ở nhóm chứng. Giá trị chỉ
số ở BN được coi là tăng khi lớn hơn giá trị trung bình + 1 SD (phương sai), được coi là giảm khi nhỏ hơn giá trị
trung bình – 1 SD của chỉ số tương ứng thuộc nhóm chứng.
              
            Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 468
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA KHÁNG INSULIN  
VÀ TỔN THƯƠNG THẬN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 
Nguyễn Thị Thanh Nga*, Hoàng Trung Vinh**, Nguyễn Thị Bích Đào*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng kháng insulin với đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân 
(BN) đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2. 
Đối tượng nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang 288 đối tượng, chia làm 3 nhóm. 
Nhóm1 ‐ chứng khỏe mạnh (n=51), nhóm 2 ‐ chứng BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương thận (n= 113), nhóm 3 ‐ 
BN ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận (n= 124) khi có 1 trong các biểu hiện vi đạm niệu (MAU), albumin niệu 
(MAC), suy thận mạn tính (STMT) chưa có lọc máu chu kỳ. Tất cả các đối tượng được định lượng glucose‐máu 
lúc đói, insulin huyết thanh, C‐peptid huyết thanh. Dựa vào nồng độ glucose, C‐peptid huyết thanh để xác định 
chỉ số kháng insulin, độ nhạy insulin, chức năng tế bào beta theo mô hình HOMA2 vi tính, ký hiệu lần lượt là: 
HOMA2‐IR, HOMA2‐%S  và HOMA2‐%B. Xác  định  có  kháng  insulin  khi  nồng  độ  insulin, C‐peptid  và 
HOMA‐IR cao hơn, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B thấp hơn so với chỉ số tương ứng ở nhóm chứng. Giá trị chỉ 
số ở BN được coi là tăng khi lớn hơn giá trị trung bình + 1 SD (phương sai), được coi là giảm khi nhỏ hơn giá trị 
trung bình – 1 SD của chỉ số tương ứng thuộc nhóm chứng. 
Kết quả: BN ĐTĐ typ 2 với tổn thương thận có giá trị trung bình insulin, C‐peptid và HOMA2‐IR tăng 
trong khi HOMA2‐%S và HOMA2‐%B giảm so với các chỉ số tương ứng ở nhóm chứng bệnh và nhóm chứng 
khỏe mạnh. Nồng  độ  trung bình  insulin, C‐peptid và HOMA2‐IR  tăng dần, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B 
giảm dần theo thứ tự từ BN có vi đạm niệu, albumin niệu đến suy thận mạn. Tỉ lệ % BN tăng insulin, C‐peptid 
và HOMA2‐IR so với giá  trị  trung bình các chỉ số  tương ứng ở nhóm chứng khỏe mạnh  là: 81,5%, 62,1%, 
79,8%. Tỉ lệ % BN giảm HOMA2‐%S và HOMA2‐%B là: 78,2% và 80,6%. 
Kết  luận: Kháng insulin ở BN ĐTĐ typ 2 liên quan với tổn thương thận trong đó nồng độ  insulin, C‐
peptid và kháng insulin tăng dần, chỉ số nhạy cảm insulin và chức năng tế bào beta giảm dần theo các giai đoạn 
bệnh thận đái tháo đường. 
Từ khóa: kháng insulin, đái tháo đường typ 2, bệnh thận mạn do đái tháo đường. 
ABSTRACT 
RELATIONSHIP BETWEEN INSULIN RESISTANCE AND DIABETIC NEPHROPATHY  
IN TYPE 2 DIABETIC ADULTS 
Nguyen Thi Thanh Nga, Hoang Trung Vinh, Nguyen Thi Bich Dao  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 468 ‐ 472 
Patients and Methods: This is a prospective, cross sectional and descriptive study. We had 288 patients 
divided  in  3  groups:  group  1  (healthy)  including 51 healthy people, group 2  (control)  including 113  type 2 
diabetic patients without kidney damage and group 3 (disease) including 124 type 2 diabetic adults with diabetic 
nephropathy. Diabetic nephropathy was defined as patient had at least one of the followings: microalbuminuria, 
albuminuria or chronic renal  failure not requiring regular dialysis. The clinical parameters  for all people were 
fasting blood glucose, serum insulin concentration and serum C‐peptide. Based on the concentration of glucose 
and serum C‐peptide, we would determine the insulin resistance index, the insulin sensitivity and the pancreatic 
* Bệnh viện Nguyễn Trãi  ** Học viện Quân Y  *** Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thị Thanh Nga ĐT: 0908498899 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 469
beta cell function according to the computerised model called HOMA2 and symbolize these values as HOMA2‐
IR,  HOMA2‐%S  and  HOMA2‐%B  respectively.  Insulin  resistance  was  determined  when  the  insulin 
concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR were higher whereas the HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were lower 
than correspondent values in the healthy group. The value was defined as high when it was more than the mean 
value + 1 SD (standard deviation) in healthy group; low when it was lower than the mean value – 1 SD.  
Results: In type 2 diabetic patients with diabetic nephropathy, the mean values of  insulin, C‐peptide and 
HOMA2‐IR  increased whereas  the HOMA2‐%S and HOMA2‐%B decreased compared  to  the  correspondent 
indexes in healthy and control groups. The mean values of insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR also 
increased gradually together with the mean values of HOMA2‐%S and HOMA2‐%B decreased in subgroups of 
different stages of diabetic nephropathy including microalbuminuria, albuminuria and chronic renal failure. The 
percentage of patients with diabetic nephropathy had increased insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR 
compared to correspondent indexes in healthy group were 81.5%, 62.1% and 79.8% respectively. The percentage 
of patients with diabetic nephropathy had decreased HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were 78.2% and 80.6%.  
Conclusion: The  insulin resistance  indexes were related to the diabetic nephropathy  in which the  insulin 
concentration, serum C‐peptide and insulin resistance index increased whereas the insulin sensitivity index and 
pancreatic beta cell function index decreased corresponding to different stages of diabetic nephropathy. 
Key words: insulin resistance, diabetic nephropathy.  
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kháng insulin đóng vai trò quan trọng trong 
sinh bệnh học của đái tháo đường typ 2 và trong 
các biến chứng mạch máu. Kháng insulin có thể 
là một yếu  tố nguy  cơ  của bệnh  thận  đái  tháo 
đường. Các nghiên  cứu  trước  đây  đã  cho  thấy 
rằng kháng  insulin có  thể xuất hiện sớm,  thậm 
chí  sớm  hơn  ở  những  bệnh  nhân  với mức  độ 
bệnh  thận mạn ở giai đoạn 3, 4. Giảm độ nhạy 
cảm  insulin  đã  được  chứng minh  có  liên quan 
đến  chức  năng  thận  suy  giảm  ngay  cả  trong 
bệnh thận mạn(4,10). 
Tổn  thương  thận  là 1  trong các biến chứng 
hay gặp, xuất hiện  sớm  ở BN ĐTĐ  typ 2. Tổn 
thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 
xuất hiện  theo  các giai  đoạn  từ nhẹ  đến nặng, 
đầu tiên  là sự xuất hiện vi đạm niệu, sau đó  là 
albumin  niệu  trong  đó  có  thể  xuất  hiện  hội 
chứng thận hư, cuối cùng là suy thận mạn tính 
các giai đoạn mà nặng nhất là suy thận mạn tính 
giai đoạn cuối cần phải điều trị bằng các phương 
pháp thay thế thận(2,8).  
Kháng insulin vừa là cơ chế bệnh sinh đồng 
thời  cũng  là yếu  tố nguy  cơ,  có  liên quan  đến 
biến  chứng  thận  ở  bệnh  nhân  đái  tháo  đường 
typ  2.  Sự  gia  tăng  tình  trạng  kháng  insulin  sẽ 
ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương thận.  
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: khảo sát mối 
liên quan giữa kháng insulin với tổn thương thận và 
giai  đoạn  tổn  thương  thận  ở  bệnh  nhân  đái  tháo 
đường typ 2.  
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối  tượng nghiên  cứu bao gồm  288  chia  3 
nhóm,  nhóm  1‐  nhóm  chứng  khỏe mạnh  (n  = 
51), nhóm 2 – BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương 
thận  (n  =  113),  nhóm  3‐  BN  ĐTĐ  typ  2  tổn 
thương thận chưa có lọc máu chu kỳ (n = 124).  
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết  kế  nghiên  cứu:  tiến  cứu,  cắt  ngang, 
mô tả, so sánh. 
Nội dung nghiên cứu 
Sau khi xác định các đối tượng thuộc nhóm 1 
là người khỏe mạnh,  tiến hành xét nghiệm các 
chỉ  số  glucose,  insulin,  c‐peptid  huyết  thanh. 
Tính các chỉ số kháng  insulin dựa vào nồng độ 
glucose,  c‐peptid  theo mô  hình HOMA2  bằng 
cách  xác  định  chỉ  số kháng  insulin  (HOMA  2‐
IR), độ nhạy insulin (HOMA2‐%S) và chức năng 
tế bào beta (HOMA2‐ %B). Ở BN thuộc nhóm 2 
và nhóm 3 cũng xét nghiệm các chỉ số tương tự 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 470
và  tính  toán  các  chỉ  số kháng  insulin  tương  tự 
như ở nhóm chứng khỏe mạnh. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Giá 
trị của 1 chỉ số ở BN được coi là tăng khi trị tuyệt 
đối > X  + 1SD, giảm khi trị tuyệt đối < X  ‐ 1SD 
giá trị tương ứng của nhóm chứng. Xác định có 
kháng insulin khi tăng nồng độ insulin, c‐peptid 
huyết  thanh,  HOMA2‐  IR;  giảm  HOMA2‐%S, 
HOMA2‐%B. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu 
Chỉ số N1 N2 N 3 
n 51 113 124 
Nam: Nữ 11: 40 30: 83 33:91 
Tuổi (năm) 66,4 65,9 69,4 
BMI 21,6 ± 1,5 23,1 ± 3,5 22,6 ± 3,9 
Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ (năm) 6,6 ± 5,8 9,3 ± 6,3 
HATT 129,1 ± 15,4 136,9 ± 19,1** 
HATTr 76,7 ± 7,6 77,2 ± 7,5 
Bảng 1 cho thấy các chi tiết nhân khẩu học, 
nhân trắc học và huyết động của các đối tượng 
nghiên cứu. 
Đối  tượng nữ  trong mỗi nhóm  đều chiếm 
tỷ lệ cao. 
Tỷ lệ đối tượng theo giới giữa 3 nhóm khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Tuổi trung bình của đối tượng thuộc 3 nhóm 
tương đương nhau. 
Thời gian phát hiện bệnh trung bình của BN 
ĐTĐ  typ 2  có  tổn  thương  thận  cao hơn  so với 
BN ĐTĐ typ 2 không có tổn thương thận. 
Giá  trị  trung  bình  (GTTB)  HATT  ở  BN 
thuộc nhóm nghiên cứu cao hơn so với nhóm 
chứng bệnh. 
Bảng 2: So sánh một số chỉ số giữa bệnh nhân thuộc 3 thể lâm sàng tổn thương thận 
Chỉ số MAU (n=22) MAC (n=39) STMT (n=63) P-ANOVA 
Tuổi (năm) 67,6 ± 10,4 68,3 ± 9,9 68,4 ± 9,7 >0,05 
Thời gian phát hiện bệnh (năm) 6,3 ± 4,7 7,4 ± 6,4 11,1 ± 6,1 <0,05 
Glucose máu lúc đói (mmol/l) 9,0 ± 3,96 9,32 ± 4,16 9,66 ± 3,31 >0,05 
HbA1c (%) 8,38 ± 2,32 9,05 ± 2,64 8,07 ± 1,77 >0,05 
MLCT (ml/1,73m2/phút) 98,5 ± 8,4 95,2 ± 6,1 48,16 ± 11,82 <0,05 
HATT (mmHg) 132,5 ± 19,7 141,9 ± 16,3 148,1 ± 17,9 <0,01 
HATTr (mmHg) 75 ± 7,5 78,6 ± 6,5 79,6 ± 7,6 <0,01 
Mức độ tổn thương thận nặng dần thì: Thời 
gian phát hiện bệnh tăng dần, MLCT giảm dần, 
chỉ số HATT‐ HATTr tăng dần có ý nghĩa thống 
kê.  Tuổi  BN,  nồng  độ  glucose  máu  lúc  đói, 
HbA1c tương đương nhau. 
Bảng 3: Tỷ lệ bệnh nhân dựa vào mức độ của các chỉ số kháng insulin giữa các giai đoạn tổn thương thận. 
Đặc điểm 
MAU (n=22) (1) MAC (n=39) (2) STMT (n=63) (3) 
p 
n % n % n % 
Tăng insulin (>10,29 µmol/ml) 17 77,3 29 74,4 55 87,3 1&3, 2&3 0,05
Tăng C-peptid (>1,18 nmol/l) 12 54,5 22 56,4 43 68,3 p ANOVA <0,01 
Tăng HOMA2-IR (>1,92) 16 72,7 30 76,9 53 84,1 1&3, 2&3 0,05 
Giảm HOMA2%S (0,05
Giảm HOMA2% B (0,05
Khi mức độ tổn thương thận nặng dần thì: 
Tỷ lệ BN có tăng C‐peptid tăng dần. 
Khi STMT, số lượng BN có tăng insulin, tăng 
HOMA2‐IR chiếm tỷ lệ cao nhất trong khi ở BN 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 471
với MAU(+), MAC(+)  thì  số  lượng  tăng  insulin 
hoặc HOMA2‐IR tương đương nhau. 
Khi  STMT,  số  lượng  BN  có  giảm  độ  nhạy 
insulin hoặc CNTB β chiếm tỷ lệ cao nhất trong 
khi ở BN MAU(+), MAC(+) thì số lượng giảm 2 
chỉ số trên tương đương nhau. 
Tỷ  lệ  bệnh  nhân  kháng  insulin  ở  các  giai 
đoạn khác nhau của bệnh thận ĐTĐ. 
Tỷ lệ bệnh nhân kháng insulin càng tăng khi 
chức năng thận càng giảm, ở các giai đoạn khác 
nhau của bệnh thận ĐTĐ. 
BÀN LUẬN 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đã  chứng minh 
rằng  đề  kháng  insulin  liên  quan  đáng  kể  với 
bệnh thận ĐTĐ, kháng insulin tăng lên với tình 
trạng giảm dần mức  lọc cầu  thận  ở những  đối 
tượng mắc bệnh ĐTĐ typ 2. Có nghĩa  là giá trị 
HOMA2‐ IR tăng lên khi mức lọc cầu thận giảm 
dần. Nghiên cứu ở Ấn Độ gần đây đã cho thấy 
mối liên hệ giữa kháng insulin và các giai đoạn 
của  bệnh  thận  ĐTĐ  typ  2(10). Nghiên  cứu  của 
Svensson và cộng sự(8), đã chứng minh rằng một 
số cơ chế trong đó bao gồm các kích thích tố lưu 
thông, các nội tiết tố thần kinh, viêm mãn tính có 
thể  đóng góp vào  sự gia  tăng kháng  insulin  ở 
các  giai  đoạn  khác  nhau  của  bệnh  thận  ĐTĐ. 
Các tác giả cũng kết  luận rằng kháng  insulin  là 
một  hệ  quả,  và  có  khả  năng  cũng  là  nguyên 
nhân của bệnh thận ĐTĐ. Các yếu tố nền tảng di 
truyền  và môi  trường  cũng  có  thể  ảnh  hưởng 
đến kháng insulin và bệnh thận ĐTĐ(3,5). 
Nghiên cứu của chúng tôi là một thiết kế cắt 
ngang do đó vẫn chưa  rõ  liệu kháng  insulin  là 
một nguyên nhân  của  sự  suy giảm  chức năng 
thận. Kết quả nghiên cứu Nhật Bản cho rằng sự 
kháng insulin và tăng insulin máu là những yếu 
tố có liên quan của chức năng thận trong dân số 
chung  sau khi  có  tính  đến những yếu  tố nguy 
cơ, là nguyên nhân gây ra tăng huyết áp và tăng 
độ lọc cầu thận, có thể gây xơ hóa cầu thận tiến 
đến rối loạn chức năng thận(6). 
Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy sự 
hiện diện của kháng  insulin ngay cả  trong giai 
đoạn chưa có albumin niệu và bệnh  thận ĐTĐ 
dẫn đến kháng insulin trầm trọng hơn và chúng 
tôi đã không được đánh giá các yếu  tố khác có 
thể liên quan với sự suy giảm chức năng thận(8). 
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu này đã được phù 
hợp với tuổi, BMI, thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ 
và kiểm soát glucose máu, do vậy khảo sát thêm 
và nghiên  cứu  tiền  cứu  là  cần  thiết  để  làm  rõ 
mối  quan  hệ  nhân  gây  bệnh  giữa  đề  kháng 
insulin và chức năng thận.  
Có giả thiết cho rằng kháng insulin gián tiếp 
gây tổn thương cho thận thông qua quá trình xơ 
vữa động mạch hệ thống. Những phát hiện của 
một  nghiên  cứu  bằng  cách  sử  dụng  các  tiêu 
chuẩn vàng xác nhận mối quan hệ chặt chẽ và 
độc  lập giữa mức  độ nghiêm  trọng  của kháng 
insulin  và  microalbuminuria(7),  nhưng  nhiều 
nghiên  cứu hiện nay giữa  đề kháng  insulin và 
bệnh thận ĐTĐ đã được ghi nhận bằng cách sử 
dụng  một  phép  đo  gián  tiếp  sự  đề  kháng 
insulin.  Trước  đó  nghiên  cứu  thực  hiện  ở  các 
bệnh nhân ĐTĐ typ 1 đã cho thấy giảm cân, tập 
thể dục có thể phòng ngừa bệnh thận ĐTĐ, làm 
giảm hoặc ngăn ngừa kháng insulin(8). 
Vì vậy, thay đổi lối sống như chế độ ăn uống 
thích hợp và tập thể dục, bỏ thuốc lá có thể làm 
giảm  kháng  insulin  và  do  đó  lần  lượt  có  thể 
ngăn ngừa bệnh thận ĐTĐ. Những hạn chế của 
nghiên cứu này là một nghiên cứu cắt ngang nó 
không thể xác nhận mối quan hệ thời gian giữa 
đề kháng insulin và mức độ của bệnh thận ĐTĐ. 
KẾT LUẬN 
Kháng insulin ở BN ĐTĐ typ 2 liên quan với 
tổn  thương  thận  trong  đó  nồng  độ  insulin, C‐
peptid, kháng insulin tăng dần, chỉ số nhạy cảm 
insulin và chức năng tế bào beta giảm dần theo 
thứ  tự  từ BN có vi đạm niệu, albumin niệu và 
suy  thận mạn  tính.  Cần  thực  hiện  các  nghiên 
cứu tiền cứu với cỡ mẫu lớn hơn, thời gian theo 
dõi kéo dài hơn để tìm kiếm mối quan hệ nhân 
quả giữa kháng insulin và tổn thương thận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Becker  B,  Kronenberg  F,  Kielstein  JT  et  al  (2005).  “Renal 
insulin resistance syndrome, adiponectin and cardiovascular 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 472
events in patients with kidney disease: the mild and moderate 
kidney disease study”. J Am Soc Nephrol;16:1091‐8. 
2. Hawkins M and Rosseti L (2005). “Insulin Resistance and Its 
Role  in  the  Pathogenesis  of  Type  2  Diabetes,  Fourteenth 
Edition”, Joslin Diabetes Center, pp. 426‐442. 
3. Kramer H.  J., Nguyen Q. D., Curhan G., et al  (2003).  ʺRenal 
Insuffciency in the Absence of Albuminuria and Retinopathy 
Among  Adults  With  type  2  Diabetes  Mellitusʺ,  JAMA, 
289(24), pp. 3273‐3277. 
4. Kubo M, Kiyohara, Kato I (1999). “Effect of hyperinsulinemia 
on  renal  function  in  a  general  Japanese  population:  The 
Hisayama study”. Kidney Int; 55: 2450‐6. 
5. Nguyễn  Đức Ngọ  (2007).  “Nghiên  cứu  tình  trạng  kháng 
insulin  và mối  tương  quan  với C‐peptide huyết  thanh  ở 
bệnh  nhân  ĐTĐ  typ  2”.  Hội  nghị  khoa  học  toàn  quốc 
chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thứ 3”. Nhà xuất 
bản y học. Tr 796‐803. 
6. Parvanova  AI,  Trevisan  R,  Iliev  IP  et  al  (2006).“Insulin 
resistance and microalbuminuria”. Diabetes 2006;55:1456‐62. 
7. Rossing  K.,  Christensen  P.  K.,  Hovind  P.  et  al  (2004). 
ʺProcession  of  nephropathy  in  type  2  diabetic  patientsʺ, 
Kidney International 66, pp. 1596‐1605. 
8. Svensson  M,  Eriksson  JW  (2006).  “Insulin  resistance  in 
diabetic nephropathy – cause or consequence?” Diab Metab 
Res Rev;22:401‐10. 
9. Vedovato M, Dodesini AR,  Lepore G  et  al  (2004).  “Insulin 
resistance  as  a  progression  promoter  in  diabetic 
nephropathy”. Diabetologia 2004;47:A21. 
10. Vijay  Viswananthan,  Priyanka  Tilak,  Satyavani  Kumpatia 
(2010).  “Insulin  Resistance  at  different  Stages  of  Diabetic 
kidney  Disease  in  India”.  Journal  of  The  Association  of 
Physicians of India; 58: 378‐ 380. 
Ngày nhận bài báo: 11/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014