Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 412
 KHẢO SÁT TÍNH HIỆU QUẢ CỦA SÁT KHUẨN TAY NHANH  
THEO MỨC ĐỘ CHE PHỦ CỦA HÓA CHẤT SÁT KHUẨN  
TRÊN BỀ MẶT DA BÀN TAY 
Huỳnh Minh Tuấn*,**, Nguyễn Vũ Hoàng Yến*, Trịnh Thị Thoa*, Nguyễn Kim Huyền*, Vũ Thị Châm*, 
Vương Minh Nguyệt* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Tuân thủ vệ sinh tay trong chăm sóc người bệnh là một trong các vấn đề y tế quan trọng và thu 
hút nhiều sự quan tâm vì sự liên quan trực tiếp tới khả năng lan truyền mầm bệnh gây nhiễm khuẩn bệnh viện, 
vì tính thách thức trong vấn đề tuân thủ của nhân viên y tế, tính hiệu quả của các loại hóa chất sát khuẩn tay và 
của các quy trình kỹ thuật vệ sinh tay. 
Mục tiêu: Khảo sát tính hiệu quả của quy trình sát khuẩn tay nhanh đang áp dụng thông qua độ che phủ 
hóa chất sát khuẩn trên bề mặt da bàn tay sau khi hoàn tất quy trình sát khuẩn tay nhanh. 
Phương pháp nghiên  cứu: Thực nghiệm mô tả, tiền cứu; thu thập mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên 
phân tầng (n=410). Đối tượng: Nhân viên y tế (bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý, nhân viên hành chính).  
Kết quả: Độ che phủ trung bình của hóa chất sát khuẩn trên bề mặt da bàn tay: 88,02% (<50%: 1,7%;50%‐
75%: 9,7%;>75%: 88,6%). Tỷ lệ không được che phủ bởi hóa chất sát khuẩn: lưng bàn tay: 60% (247); móng và 
dưới móng: 57% (236), lòng và lưng ngón: 55% (227), kẽ tay: 48% (198), lòng bàn tay: 3%. 
Kết luận:Trong điều kiện chăm sóc y tế giản đơn tại khu khám bệnh hoặc bệnh phòng thường, phương 
pháp sát khuẩn tay nhanh với dung dịch hoặc gel chứa cồn còn bộc lộ những hạn chế nhất định về mặt kỹ 
thuật. Phần lưng bàn tay, móng và dưới móng, lòng và lưng ngón, kẽ ngón tay rất dễ không tiếp xúc với 
hóa chất sát khuẩn. Cần có chương trình tập huấn, đào tạo, tuyên truyền hiệu quả dựa trên thực hành và 
minh họa bằng hình ảnh. 
Từ khóa: Nhiễm khuẩn bệnh viện, vệ sinh tay, hóa chất sát khuẩn, độ che phủ. 
ABSTRACT 
EVALUATE THE EFFICACY OF RAPID HAND SANITIZER BY THE COVERAGE RATE (%)  
OF DISINFECTANT ON THE SURFACE OF HAND SKIN 
Huynh Minh Tuan, Nguyen Vu Hoang Yen, Trinh Thi Thoa, Nguyen Kim Huyen, Vu Thi Cham,  
Vuong Minh Nguyet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 412 ‐ 417 
Background: Hand  hygiene  compliance  related  to  taking  care  of  patient  is  currently  one  of  the most 
important medical  issues  and  attracted  to many  interests  because  of  its  direct  involvement  to  the  potential 
transmissions of microbial pathogens which cause healthcare associated infections, the challenge of the compliance 
among healthcare workers, and the quality of different disinfectants and technical procedures.  
Objectives: Evaluate the efficacy of the technical procedure of rapid hand sanitizer by the coverage rate (%) 
of disinfectants on the surface of hand skin. 
Method: Empirical description, prospective; stratified random sampling method (n=410). 
Results: The average coverage rate of fluorescence on the surface of hand skin: 88.02% (<50%: 1.7%; 50%‐
* Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn – Bệnh viện Đại học Y Dược Tp. HCM 
** Bộ môn Vi sinh ‐ Đại học Y Dược Tp. HCM 
Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Minh Tuấn  ĐT: 0909349918 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 413
75%: 9.7%; >75%: 88.6%). The missing parts, which are the ones of the hand skin not covered by fluorescence 
were the dorsum of the hand: 60% (247); the nail and under‐nail areas: 57% (236); the front and back sites of 
fingers: 55% (227); the both sides of fingers: 48% (198); and the palm of the hand: 3%. 
Conclusions: In the situation of carrying simple medical practices at outpatient department and/or normal 
patient  room,  hand  hygiene  technique  by  alcohol‐based  rub  (liquid  or  gel)  still  remains  some  particular 
limitations in term of technical. Hand skin area covered  less than 75% by antiseptic after applying completely 
six‐step hand hygiene  technique  is more  than 10%. Furthermore,  such areas of dorsum of  the hand, nail and 
under‐nail areas,  front and back sites of  fingers, and between  fingers are not easily exposed by antiseptic. It  is 
necessary  to  organize  training,  teaching  courses  efficiently  in  hand  hygiene  basing  on  good  practice  and 
visualization of the risk of microbial pathogen transmission via hand. 
Keywords: Health care associated infection (HCAI), Hand hygiene, disinfectant, coverage rate. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, nhiễm khuẩn bệnh viện  (NKBV) 
là một  trong những vấn  đề y  tế nóng bỏng và 
được quan  tâm nhiều nhất. NKBV  làm kéo dài 
thời gian nằm viện, gây ra nhiều biến chứng tàn 
phế,  làm  tăng  khả  năng  đề  kháng  kháng  sinh 
của vi khuẩn gây bệnh,  là gánh nặng  tài chính 
cho người bệnh và gia  đình, và  cuối  cùng  làm 
tăng tỷ lệ tử vong. 
Về vai trò của bàn tay NVYT làm lan truyền 
các tác nhân gây NKBV, ngay  từ  thế kỷ 17, các 
nghiên cứu của Ignaz Semmelweis ở Vienna, Áo 
và Oliver Wendell Holmes ở Boston, Mỹ đã cho 
thấy bàn tay của NVYT là trung gian lan truyền 
các mầm bệnh trong bệnh viện. Tiếp theo nhiều 
thập  kỷ  sau  đó,  nhiều  nghiên  cứu  đã  đưa  ra 
chứng cứ về khả năng lây truyền mầm bệnh qua 
trung gian bàn tay (Casewell, 1977; Allen, 1975; 
Pittet, 1999). Tác nhân vi khuẩn gây bệnh sẽ có 
thể  được  lan  truyền  từ  người  bệnh  này  sang 
người  bệnh  khác  (hoặc  từ  người  bệnh  sang 
NVYT) thông qua một chuỗi các sự kiện liên tục: 
(i) vi sinh vật tồn tại trên da của người bệnh, và 
được  thải vào môi  trường  chung quanh người 
bệnh, (ii) các vi sinh vật này có khả năng ngoại 
nhiễm  vào  bàn  tay  của NVYT  thông  qua  các 
hoạt  động  chăm  sóc,  đụng  chạm  trực  tiếp vào 
người bệnh hoặc môi trường xung quanh người 
bệnh,  (iii)  nhiều  loại  vi  sinh  vật  có  khả  năng 
sống sót và tồn tại trên bàn tay NVYT vài phút, 
(iv) không vệ  sinh  tay hoặc vệ  sinh  tay không 
đúng cách hoặc hóa chất sát khuẩn dùng cho vệ 
sinh  tay  không  có  tác dụng,  (v)  bàn  tay  ngoại 
nhiễm  của NVYT  tiếp  xúc  trực  tiếp  với  người 
bệnh khác hoặc làm lây nhiễm lên một dụng cụ 
chăm sóc người bệnh khác. Từ đó đã hình thành 
khái niệm về vệ sinh tay trong cơ sở y tế, những 
năm của thập kỷ 1980 đánh dấu các tiến bộ vượt 
bậc về khái niệm và thực hành vệ sinh tay trong 
cơ sở y  tế khi hướng dẫn vệ sinh  tay cấp quốc 
gia đầu tiên ra đời (Hoa Kỳ). 
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cũng đã phát 
hành các khuyến cáo về vệ sinh bàn tay trong cơ 
sở y tế, bản cập nhật năm 2009 (WHO, 2009). 
Tại Việt Nam cho đến hiện nay, văn bản nhà 
nước quy định về vấn đề vệ sinh tay trong cơ sở 
y  tế  là Công Văn  số 7517/BYT‐ĐTr về “Hướng 
dẫn thực hiện quy trình rửa tay thường quy và 
sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn” 
ban  hành  ngày  12/10/2007  (Công  văn  số 
7517/BYT‐ĐTr,  2007).  Theo  tài  liệu  này,  quy 
trình  kỹ  thuật  sát  khuẩn  tay  nhanh  gồm  sáu 
bước như sau: 
Lấy 3ml dung dịch  chứa  cồn vào  lòng bàn 
tay. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau. 
Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các 
ngón tay của bàn tay kia và ngược lại. 
Chà hai  lòng bàn  tay vào nhau, miết mạnh 
các kẽ ngón tay. 
Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này 
vào lòng bàn tay kia và ngược lại. 
Dùng  lòng  bàn  tay  này  xoay  ngón  cái  của 
bàn tay kia và ngược lại. 
Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia 
và ngược lại. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 414
Ghi  chú:  1/ Mỗi  bước  “chà”  5  lần;  2/ Thời 
gian “chà” tay tối thiểu 30 giây, hoặc chà xát tay 
cho đến khi tay khô; 3/ Không áp dụng phương 
pháp này trong trường hợp biết chắc hoặc nhìn 
thấy vết bẩn trên tay như: cầm nắm, đụng chạm 
vào vật dụng bẩn, tay dính máu, dính chất tiết. 
Rõ ràng là theo các quy trình này (WHO và 
Bộ Y Tế) các bước kỹ thuật đã được thiết kế để 
có  thể  “nhắm”  đến  việc  loại  bỏ  vi  sinh  vật  ô 
nhiễm trên da bàn tay ở các vùng: lòng bàn tay, 
lưng bàn  tay, phần da  lòng và  lưng ngón  tay, 
phần  da  kẽ  tay  hai  bên,  phần móng  và  dưới 
móng. Các quy trình kỹ thuật có đặt yêu cầu cụ 
thể về thời gian nhằm mục đích đạt được sự tiếp 
xúc  cần  thiết  (về  thời  gian)  giữa  hóa  chất  sát 
khuẩn  và  vi  sinh  vật  ô  nhiễm  (nếu  có)  nhằm 
mục đích tiêu diệt vi sinh vật. 
Trong quá trình thực hành kiểm soát nhiễm 
khuẩn, sự quan sát của chúng tôi dấy lên lo ngại 
rằng quy trình kỹ thuật sát khuẩn tay nhanh đã 
không được thực hiện một cách đúng đắn. Bởi vì 
chúng tôi cho rằng các bước kỹ thuật trong quy 
trình dù không thật phức tạp nhưng cũng không 
phải quá đơn giản, trong khi thái độ của đại đa 
số nhân viên y  tế  lại  rất  thờ  ơ và không quan 
tâm  đến vấn  đề này. Khi  tìm  tài  liệu y văn  tại 
Việt Nam  thì  thấy  số  liệu khoa học về vấn  đề 
này còn rất ít, do vậy chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của sát khuẩn 
tay nhanh dựa trên một yếu tố là độ che phủ của 
hóa  chất  sát  khuẩn  trên  da  bàn  tay  sau  hoàn 
thành quy trình kỹ thuật. Thực hiện nghiên cứu 
này, chúng  tôi mong muốn đóng góp vào kiến 
thức y học chung về vệ sinh tay trong cơ sở y tế, 
nhằm giúp nhân viên y  tế nâng  cao kiến  thức, 
thái độ, thực hành đối với vệ sinh bàn tay trong 
chăm sóc người bệnh. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhân  viên  y  tế  đang  công  tác  trong  bệnh 
viện không phân biệt  tuổi, giới,  trình  độ, khoa 
làm việc. 
Cỡ mẫu  và  phương  pháp  lấy mẫu  ngẫu 
nhiên phân tầng 
Dân số chung (N:  tổng số nhân viên  tại các 
khoa phòng  có  tiếp  xúc với người bệnh)  được 
chia thành các dân số nhỏ hơn (Số nhân viên tại 
các khoa), mỗi một khoa được gọi  là một  tầng. 
Để đạt được kết quả tối ưu của sự phân tầng, số 
lượng nhân viên của từng khoa phải được chia 
tỷ lệ, có nghĩa là sự phân bố của nhân viên y tế 
trong cỡ mẫu tương đương với sự phân bố trong 
dân số chung. Gọi Ni là dân số của khoa i, n là 
cỡ mẫu, và ni là số đối tượng được chọn từ tầng 
i, thì Ni/N = ni/n, hay số đối tượng được chọn từ 
mỗi khoa sẽ là ni = n(Ni/N) (Bảng 1). 
Bảng 1: Phân bố mẫu nghiên cứu theo khoa/phòng 
trong bệnh viện 
Khoa phòng Tổng số (Ni) 
% theo dân số
(Ni/N) 
Số lượng 
(ni) 
Cấp Cứu 37 4,862023653 20 
Nội Tim Mạch 38 4,993429698 20 
Hồi Sức 62 8,14717477 33 
Tai Mũi Họng 24 3,153745072 13 
Nội Tổng Hợp 41 5,387647832 22 
Mắt 13 1,708278581 7 
Tạo Hình Thẩm Mỹ 15 1,97109067 8 
Ngoại 1 22 2,890932983 12 
Ngoại 2 49 6,438896189 26 
Ngoại 3 32 4,20499343 17 
Xét Nghiệm 55 7,227332457 30 
Nội Soi 25 3,285151117 13 
Chẩn Đoán Hình Ảnh 101 13,27201051 54 
Dược 60 7,884362681 32 
Phẫu Thuật 95 12,48357424 51 
Thăm Dò Chức Năng 9 1,182654402 5 
Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn 30 3,94218134 16 
Phẫu Thuật Tim 53 6,964520368 29 
Tổng 761 100 410(n) 
Quy  trình  kỹ  thuật  sát  khuẩn  tay  nhanh 
bằng hóa chất sát khuẩn dạng gel có chứa cồn và 
chất phát huỳnh quang: áp dụng theo quy trình 
của WHO và Bộ Y Tế (WHO, 2009 và Công văn 
số 7517/BYT‐ĐTr, 2007). 
Quy ước và phương pháp tính diện tích da 
bàn tay 
Theo phương pháp tính diện tích da bị bỏng 
của Blokhin và Glumov (1953) thì diện tích một 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 415
gan bàn tay (tính từ lằn cổ tay đến đầu các ngón 
tay) của bệnh nhân bằng 1% diện tích da toàn cơ 
thể người  đó. Suy  ra diện  tích da một bàn  tay 
chiếm 2% diện tích da toàn cơ thể. Các nhà khoa 
học  ước  tính diện  tích da bao phủ  cơ  thể một 
người trung bình khoảng 2m2. Do đó, diện  tích 
da của một bàn tay là 0,04m2 (400cm2). 
Toàn bộ da  từ cổ  tay  trở xuống  là 100% và 
được chia  thành các vùng với  tỷ  lệ % như  sau 
(Hình 1): 
‐ Lòng bàn tay: 25%, trong đó 
Chia làm 4 phần đều nhau, mỗi phần 6,25% 
‐ Mu bàn tay: 25%, trong đó 
Chia làm 4 phần đều nhau, mỗi phần 6,25% 
‐ Mỗi ngón tay: 10%, trong đó: 
Vùng móng và dưới móng: 3,3%. 
Vùng kẽ tay 2 bên: 3,3%. 
Vùng lòng và lưng ngón: 3,3%. 
Hình 1: Quy ước phân chia các khu vực trên bàn tay 
Tính  toán “độ che phủ” của hóa chất sát 
khuẩn trên da bàn tay 
Quan sát các vùng không sáng màu huỳnh 
quang và cộng tỷ  lệ %, sau đó tính độ che phủ 
của dung dịch sát khuẩn tay bằng cách lấy 100% 
trừ đi cho  tỷ  lệ  các vùng da mà dung dịch  sát 
khuẩn tay không che phủ. 
KẾTQUẢ‐BÀNLUẬN 
Phân tích mẫu nghiên cứu (Bảng 2) 
Toàn  bộ  có  412  nhân  viên  y  tế  tham  gia 
nghiên cứu,  trong  đó chúng  tôi  đã hoàn  thành 
việc  thực  nghiệm  sát  khuẩn  tay  nhanh  và  ghi 
hình trong 410 trường hợp (tỷ lệ 99,51%). 
Bảng 2: Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
 Số lượng (Tỉ lệ %) 
Phân bố mẫu theo tuổi 
Dưới 30 tuổi 268(65,29) 
Từ 30 - 50 tuổi 129(31,55) 
Trên 50 tuổi 13(3,16) 
Phân bố mẫu theo số năm kinh nghiệm làm việ 
Dưới 5 năm 266(64,81) 
Trên 5 năm 144(35,19) 
Phân bố mẫu theo trình độ của nhân viên y tế 
Bác sỹ 33(8,01) 
Điều dưỡng 215(52,43) 
Kỹ thuật viên 52(12,62) 
NVHC/Hộ lý 56(13,59) 
Học viên 15(3,64) 
Nhân viên Dược 32(7,77) 
NVYT khác 8(1,94) 
Kết quả phân tích mức độ che phủ của hóa 
chất sát khuẩn trên bề mặt da bàn tay sau 
khi  đã  thực  hiện  quy  trình  kỹ  thuật  sát 
khuẩn tay nhanh 
Trong  412 nhân viên y  tế  tham  gia nghiên 
cứu, chúng tôi ghi hình được tổng cộng 410 hình 
ảnh  bàn  tay  sau  khi  thực  hiện  quy  trình  sát 
khuẩn  tay nhanh với hóa  chất  sát khuẩn dạng 
gel chứa cồn có pha hợp chất phát màu huỳnh 
quang (khi soi dưới đèn huỳnh quang). 
Trong 410 mẫu thu thập được, chỉ có 47 mẫu 
(chiếm  11,46%)  đạt  100% mức  độ  che phủ  của 
hóa chất sát khuẩn  trên  toàn bộ bề mặt da bàn 
tay. Sự khác biệt theo tuổi, số năm kinh nghiệm 
làm việc và trình độ không có ý nghĩa thống kê. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 416
Tuy vậy, tỷ lệ đạt thấp một cách đáng kinh ngạc 
ở tất cả các nhóm đối tượng (Bảng 3). 
Bảng 3: Tỷ lệ số bàn tay đạt 100% độ che phủ của 
hóa chất sát khuẩn sau khi thực hiện xong quy trình 
sát khuẩn tay nhanh với hóa chất sát khuẩn dạng gel 
có chứa cồn và chất phát huỳnh quang. 
 Tỷ lệ số bàn tay đạt 100% độ che 
phủ của hóa chất sát khuẩn (%) 
Tỷ lệ chung 11,46 
Bác sỹ 15,15 
Điều dưỡng 9,35 
Kỹ thuật viên 9,62 
NVHC/Hộ lý 12,5 
Học viên 13,33 
Nhân viên Dược 18,75 
NVYT khác 25 
Khi phân tích và tính toán mức độ che phủ 
trung bình của hóa chất sát khuẩn  trên da bàn 
tay sau khi hoàn thành quy trình sát khuẩn tay 
nhanh,  điều  an  ủi  là  gần  90%  nhân  viên  y  tế 
tham gia nghiên  cứu  đạt mức  độ  che phủ  của 
hóa chất sát khuẩn  trên da bàn  tay  từ 75‐100% 
(Bảng 4), Tuy vậy, vẫn có 7  trường hợp  (chiếm 
1,7%), sau khi đã hoàn tất đầy đủ sáu bước của 
quy  trình sát khuẩn  tay nhanh mà  độ  che phủ 
của hóa chất trên da bàn tay vẫn thấp hơn 50% 
(!), Các  nhóm  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu 
gồm  bác  sĩ,  điều  dưỡng,  kỹ  thuật  viên,  nhân 
viên  hành  chánh  đều  cho  kết  quả  tương  đối 
tương đồng (từ trên 88% mức độ che phủ da bàn 
tay),  chỉ  có  nhóm  hộ  lý  cho  kết  quả  thấp  hơn 
(hơn 86%), dù rằng sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 5). 
Bảng 4: Độ che phủ trung bình da bàn tay sau hoàn 
thành quy trình sát khuẩn tay nhanh 
 Độ che phủ bàn tay (%) 
0 - <25% 0 
25% - <50% 1,7 
50% - <75% 9,7 
75% - 100% 88,6 
Khi tiến hành phân tích vùng nào của bàn 
tay ít được che phủ bởi hóa chất sát khuẩn tay 
sau  khi  hoàn  thành  quy  trình  sát  khuẩn  tay 
nhanh,  chúng  tôi  phát  hiện  được:  ngoại  trừ 
vùng  lòng bàn  tay  (là nơi  trực  tiếp hứng hóa 
chất sát khuẩn từ bình đựng), những vùng da 
còn  lại  trên bàn  tay, bao gồm vùng  lưng bàn 
tay, vùng  lòng và  lưng ngón  tay, vùng kẽ  tay 
hai bên, vùng móng và dưới móng, đều có  tỷ 
lệ bị bỏ sót (không được che phủ bởi hóa chất 
sát khuẩn) rất cao, từ khoảng 50‐60% (Bảng 6). 
Khi phân  tích  riêng  đối  tượng bác  sĩ và  điều 
dưỡng,  thậm  chí  vùng móng  và  dưới móng 
còn có tỷ lệ bị bỏ sót lên đến hơn 75% (Bảng 7), 
mà y văn  đã ghi nhận nhiều  đây  là vùng  ẩn 
nấp của vi khuẩn và cũng  là vùng có tần suất 
đụng chạm đến người bệnh (có nghĩa là có khả 
năng lây truyền bệnh nhiều nhất). 
Bảng 5: Độ che phủ trung bình da bàn tay sau hoàn 
thành quy trình sát khuẩn tay nhanh theo từng đối 
tượng nhân viên y tế 
 Độ che phủ trung bình theo đối tượng 
(%) 
Bác sỹ 88,1 
Điều dưỡng 87,8 
Kỹ thuật viên 88,2 
NVHC 88,6 
Hộ lý 86,9 
Bảng 6: Tỷ lệ các vùng da của bàn tay không được 
che phủ bởi hóa chất sát khuẩn sau hoàn thành quy 
trình sát khuẩn tay nhanh (bác sĩ và điều dưỡng) 
 Bác sỹ (33) Điều dưỡng (216)
Lòng 0 3,7 
Lưng 48,48 58,8 
Móng và dưới móng 75,76 54,63 
Kẽ tay 2 bên 42,42 48,15 
Lòng và lưng ngón 51,52 52,31 
Bảng 7: Tỷ lệ các vùng da của bàn tay không được 
che phủ bởi hóa chất sát khuẩn sau hoàn thành quy 
trình sát khuẩn tay nhanh 
 Tỷ lệ các vùng da của bàn tay 
không được che phủ bởi hóa 
chất sát khuẩn (%) 
Lòng 3.16 
Lưng 59,95 
Móng và dưới móng 57,28 
Kẽ tay 2 bên 48,06 
Lòng và lưng ngón 55,1 
Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  thực 
nghiệm mô phỏng  tình huống chăm  sóc người 
bệnh trong phòng khám bệnh hay trong phòng 
bệnh bình thường, yêu cầu nhân viên y tế tham 
gia nghiên cứu hoàn thành quy trình sát khuẩn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 417
tay nhanh và sau đó tiến hành ghi hình lại ngay. 
Các kết quả  thu  được  đã phân  tích  ở  trên bao 
gồm độ che phủ của hóa chất sát khuẩn trên da 
bàn  tay  (trung bình  88,6%),  các  vùng dễ  bị  bỏ 
sót  cho  thấy  có  lẽ  còn  có  nhiều  vấn  đề  cần 
phải được nghiên cứu sâu rộng hơn đối với kỹ 
thuật  sát khuẩn  tay nhanh bằng  các  loại dung 
dịch hoặc gel có chứa cồn. Chúng ta biết đối với 
kỹ  thuật này,  yếu  tố duy nhất  giúp  loại  bỏ  vi 
sinh vật ô nhiễm trên da bàn  tay  là sự  tiếp xúc 
(có  điều  kiện  về  thời  gian)  giữa  hóa  chất  sát 
khuẩn với vi sinh vật, chứ không hề có tác động 
của yếu tố vật lý như cọ rửa bằng bàn chải trong 
kỹ  thuật  rửa  tay với nước và  xà phòng  (trong 
nghiên cứu này chúng tôi không đặt vấn đề với 
hóa chất sát khuẩn và giả  thuyết rằng hóa chất 
sát khuẩn sử dụng ở đây đạt hiệu quả tiêu diệt 
vi  sinh  vật  theo  yêu  cầu). Nếu  cho  rằng  quy 
trình  kỹ  thuật  sát  khuẩn  tay  nhanh  là  hợp  lý, 
trong  các bước kỹ  thuật  đều  có nhắm  đến  các 
vùng da khác nhau  trên bàn  tay  thì có  lẽ động 
tác kỹ  thuật phức  tạp đã hạn chế hiệu quả của 
quy  trình,  và  rõ  ràng  kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng tôi cho thấy người nhân viên y tế, bất kể 
lứa  tuổi,  trình  độ,  kinh  nghiệm  lâu  năm  hay 
không,  đều  không  dễ  dàng  thực  hiện  tốt  quy 
trình kỹ thuật này (mà trong thâm tâm của tất cả 
mọi  người  chúng  ta  đều  cho  nó  là  giản  đơn, 
không mấy  khi  được  quan  tâm  đến). Do  vậy, 
chúng  tôi  cho  rằng  điều  cốt  lõi  ở  đây  là  phải 
được  đào  tạo một  cách nghiêm  túc,  thực hành 
nhiều lần, và phải có kiểm soát chặt chẽ. 
KẾTLUẬN 
Sau  hoàn  thành  quy  trình  sát  khuẩn  tay 
nhanh  bằng  hóa  chất  sát  khuẩn  dạng  gel  có 
chứa  cồn,  độ  che phủ  trung  bình da  toàn  bộ 
bàn tay là 88,6%. Ngoại trừ vùng lòng bàn tay, 
các vùng khác của bàn tay (lưng bàn tay, lòng 
và  lưng ngón  tay, kẽ  tay hai bên, phần móng 
và dưới móng)  đều  có  tỷ  lệ bị bỏ  sót  (không 
được che phủ bởi hóa chất sát khuẩn sau hoàn 
thành quy  trình  sát khuẩn  tay nhanh)  rất  cao 
(xoay quanh 50%). Nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
cũng không phát hiện được sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê theo độ tuổi, theo kinh nghiệm 
lâu năm, và  theo  trình  độ  của nhân viên y  tế 
tham  gia nghiên  cứu  (bác  sĩ,  điều dưỡng,  kỹ 
thuật viên, nhân viên hành chánh, hộ lý, nhân 
viên vệ sinh). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế (2007). Công Văn số 7517/BYT‐ĐTr về “Hướng dẫn 
thực  hiện  quy  trình  rửa  tay  thường  quy  và  sát  khuẩn  tay 
nhanh bằng dung dịch chứa cồn”, Hà Nội, Việt Nam. 
2. Casewell M, Phillips I (1977), Hands as route of transmission 
for Klebsiella species, B MJl, 2:1315–1317, 
3. Pittet D, et al (1999), Bacterial contamination of the hands of 
hospital staff during routine patient care, Archives of Internal 
Medicine, 159: 821–826, 
4. Steere AC, Mallison GF  (1975), Hand washing practices  for 
the  prevention  of  nosocomial  infection,  Annals  of  Internal 
Medicine, Vol, 83:683‐685, 
5. WHO  (2009). Guidelines on Hand Hygiene  in Health Care. 
WHO Press, World Health Organization,  20 AvenueAppia, 
1211 Geneva 27, Switzerland, 
Ngày nhận bài báo: 07/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014